Chào mừng bạn đến với Gia Đình Duy Duy - Chúc bạn vui vẻ và hạnh phúc !

Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2010

Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên

Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên Nguyễn Tất Nhiên, tên thật là Nguyễn Hoàng Hải. Sinh ngày 30 tháng 5 năm 1952 tại quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa và mất ngày 3 tháng 8 năm 1992 tại California. Nguyễn Tất Nhiên theo học trường trung học Ngô Quyền từ năm 1963 cho tới năm 1970. Lúc mới vừa lên trung học đệ nhất cấp, Nguyễn Tất Nhiên đã làm thơ. Theo lời những người bạn cùng trường lúc đó, thơ của Nguyễn Tất Nhiên đã rất hay từ nhỏ. Lúc đó Nguyễn Tất Nhiên thành lập thi văn đoàn với bạn học là Đinh Thiên Phương, tên thật là Đinh Thiên Thọ. Cả hai thi sĩ học trò nầy cùng chung nhau xuất bản tập thơ Nàng thơ trong mắt năm 1966, khi đó Nguyễn Tất Nhiên được 14 tuổi. Trong tập thơ nầy Nguyễn Tất Nhiên lấy bút hiệu là Hoài Thi Yên Thi. Tâm hồn nghệ sĩ của Nguyễn Tất Nhiên đã phát hiện trong người anh lúc ông còn rất trẻ. Đầu óc của ông được miêu tả lúc nào cũng như mơ mộng suy nghĩ đâu đâu, không tập trung ngay cả khi đang học. Bạn bè đùa thời gian này gọi ông là Hải Ngáo hay Hải Khùng. Mối tình vô vọng với cô Duyên, nỗi đam mê, niềm đau khổ làm người, thể hiện qua những bài thơ của anh đã tạo nên phong các thơ của ông. Sự nghiệp của Nguyễn Tất Nhiên thời gian đầu không mấy thành công: thơ ông in ronéo tặng không cho các nữ sinh đều bị quăng vào thùng rác. Những tập thơ gửi bán trong các tiệm sách đầu chợ Biên Hòa để đến giấy đổi màu vàng vẩn không bán được. Cho đến khi thơ ông được một số thầy giáo gửi đăng báo Sáng tạo của Mai Thảo, rồi Phạm Duy, Nguyễn Đức Quang thấy đó mà phổ nhạc thì mới bắt đầu nổi tiếng. Vào khoảng năm 1972 hoặc 1973, Nguyễn Tất Nhiên nhận được giấy gọi nhập ngũ vào trường Võ bị Thủ Đức. Tuy nhiên mới vào Trung Tâm 3 Quang Trung, ông đã được cho thôi về vì lý do tâm thần bất ổn. Sau năm 1975, Nguyễn Tất Nhiên sống ở trong nước vài năm, sau đó sang đinh cư sang Pháp, rồi cuối cùng sang Mỹ sống ở Quận Cam. Sau ông lấy vợ có tên là Minh Thủy, có 2 đứa con trai. Ngày 3 tháng 8 năm 1992, người ta thấy ông nằm chết trong một xe hơi cũ, đậu dưới bóng cây trong sân chùa tại California. Một bình luận về thơ Nguyễn Tất Nhiên Anh nổi tiếng rất sớm. Vì thơ anh đi sớm hơn bước chân còn ngại ngùng bỡ ngỡ của thế hệ trẻ thời ấy trước sự tràn ngập của văn hóa phương Tây, qua hình ảnh người lính viễn chinh Mỹ, và qua phong trào hiện sinh mô phỏng trễ tràng trên đất nước đói nghèo, chiến tranh. Anh mạnh dạn nói được tiếng nói của tình yêu tuổi trẻ với sân trường, kỳ thi, chiến tranh, mất mát, hoài vọng, tuyệt vọng... Chẳng phải sớm gì trong thể loại thơ, mà sớm trong phong cách biểu hiện. Anh dùng thứ ngôn ngữ của thời đại, rất hiện thực, không đẽo gọt; vậy mà thứ ngôn ngữ ấy bỗng nhiên mới, lạ, và được đón nhận nồng nhiệt. Bắt được giọng thơ tươi rói và đầy sức thu hút của anh, một nhạc sĩ tài danh phổ ngay thơ của anh thành nhạc, làm rung động bao trái tim cuồng nhiệt yêu đương thời chiến loạn. Vậy rồi thơ anh cất lên thành cơn sóng lớn, vượt bờ. Không ai mà chẳng biết thơ anh, không ai mà không hát nhạc phổ thơ của anh. Hãy đọc một số bài thơ nổi tiếng được phổ nhạc mà ai cũng biết; và nên nhớ rằng lúc ấy, Nguyễn Tất Nhiên chỉ mới xấp xỉ ở tuổi hai mươi, để thấy cái tài hoa dị thường của anh: Khúc Buồn Tình 1. Người từ trăm năm về ngang sông rộng ta ngoắc mòn tay ... trùng trùng gió lộng (thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá thà như giọt mưa khô trên tượng đá có còn hơn không mưa ôm tượng đá) người từ trăm năm về khơi tình động ta chạy vòng vòng ta chạy mòn chân nào hay đời cạn! (thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá thà như giọt mưa khô trên tượng đá có còn hơn không mưa ôm tượng đá) người từ trăm năm về như dao nhọn ngọt ngào vết đâm ta chết âm thầm máu chưa kịp đổ (thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá thà như giọt mưa khô trên tượng đá có còn hơn không mưa ôm tượng đá) 2. thà như giọt mưa gieo xuống mặt người vỡ tan vỡ tan nào ta ân hận bởi còn kịp nghe nhịp run vồi vội trên ngọn lông măng (người từ trăm năm vì ta, phải khổ!) (1970) Trong tình yêu, thơ anh táo bạo vay mượn những hình ảnh thánh thiện để ví von mình, ví von người tình. Có thể nói lối vay mượn này là bước khai phá có một không ai của anh vào thời ấy, khiến thơ anh càng thêm phần đặc dị, ngời sáng, mà lại gần gũi biết bao với tâm tình giới trẻ. Ma Sœur đưa em về dưới mưa nói năng chi cũng thừa phất phơ đời sương gió hồn mình gần nhau chưa? tay ta từng ngón tay vuốt lưng em tóc dài những trưa ngồi quán vắng chia nhau tình-phôi-thai xa nhau mà không hay (hỡi em cười vô tội đeo thánh giá huy hoàng hỡi ta nhiều sám hối tính nết vẫn hoang đàng!) em hiền như "ma sœur" vết thương ta bốn mùa trái tim ta làm mủ "ma sœur" này "ma sœur"! có dịu dàng ánh mắt? có êm đềm cánh môi? ru ta - người bệnh hoạn ru ta suốt cuộc đời (cuộc đời tên vô đạo vết thương hành liệt tim!) đưa em về dưới mưa xe lăn đều lên dốc chở tình nhau mệt nhọc! đưa em về dưới mưa áo dài sầu hai vạt khi chấm bùn lưa thưa... đưa em về dưới mưa hỡi em còn nít nhỏ chuyện tình nào không xưa? vai em tròn dưới mưa ướt bao nhiêu cũng vừa cũng chưa hơn tình rụng thấm linh hồn "ma sœur"... (1971) Linh Mục 1. dĩ vãng là địa ngục giam hãm đời muôn năm tôi -- người yêu dĩ vãng nên sống gần Sa-tăng ngày kia nghe lời quỷ giáng thế thêm một lần trong kiếp người linh mục xao gầy cơn điên trăng! 2. vì tôi là linh mục không mặc áo nhà giòng nên suốt đời hiu quạnh nên suốt đời lang thang! vì tôi là linh mục giảng lời tình nhân gian nên không có thánh kinh nên không có bổn đạo nên không có giáo đường (một tín đồ duy nhất vừa thiêu hủy lầu chuông!) vì tôi là linh mục phổ lời tình nhân gian thành câu thơ buồn bã nên hạnh phúc đâu còn nên người tình duy nhất vừa thiêu hủy lầu chuông! vì tôi là linh mục không biết mặt thánh thần nên tín đồ duy nhất cũng là đấng quyền năng! 3. tín đồ là người tình người tình là ác quỷ ác quỷ là quyền năng quyền năng là tín đồ tín đồ là người tình thiêu hủy lầu chuông tôi (vì tôi là linh mục giảng lời tình nhân gian!) 4. vì tôi là linh mục không biết rửa tội người nên âm thầm lúc chết tội mình còn thâm vai... (1970) Ðụng chạm, lôi kéo những biểu tượng linh thiêng, đưa vào thơ và đưa vào tình yêu đời thường. Vậy mà anh chẳng làm mất lòng ai. Người ta vẫn cứ thích thú ca hát lời thơ của anh: Hai năm tình lận đận 1. hai năm tình lận đận hai đứa cùng xanh xao mùa đông, hai đứa lạnh hơi thở dài như nhau (?) hai năm tình lận đận hai đứa cùng hư hao (em không còn thắt bính nuôi dưỡng thời ngây thơ anh không còn luýnh quýnh giữa sân trường trao thư!) hai năm tình lận đận hai đứa đành xa nhau em vẫn còn mắt biếc anh vẫn còn nôn nao ngoài đường em bước chậm trong quán chiều anh ngóng cổ cao... 2. em bây giờ, có lẽ toan tính chuyện lọc lừa anh bây giờ, có lẽ xin làm người-tình-thua chuông nhà thờ đổ mệt tượng Chúa gầy hơn xưa Chúa bây giờ, có lẽ rơi xuống trần gian, mưa (dù sao thì Chúa cũng một thời làm trai tơ dù sao thì Chúa cũng là đàn ông... dại khờ!) anh bây giờ, có lẽ thiết tha hơn tín đồ nguyện làm cây thánh giá trên chót đỉnh nhà thờ cô đơn nhìn bụi bặm làm phân bón rêu xanh (dù sao cây thánh giá cũng được người nhân danh!) 3. hai năm tình lận đận em đã già hơn xưa!... (1972) Anh thoát ra khỏi những hình ảnh và ngôn ngữ thơ chắt lọc, sang cả quí phái của nền thơ truyền thống. Thơ anh, không cứ là trăng là gió, là bến nước, bờ mây, tóc thề và áo dài bay tha thướt, mái tranh, cây đa hay gốc chuối... (như thể là người thơ cứ suốt đời ở nhà quê, cảnh cũ!) mà thay vào đó là những hình ảnh rất thực của thị thành với "tóc demi garçon", tóc bính, cột điện, với xe đạp, cà phê, cà phê đá, rạp cải lương, nhà ga và toa tàu, mùa thi với văn bằng... Tự ví mình như là một gã ngông cuồng, là người phá phách, là người vô đạo, là sa-tăng ác quỷ... nhưng trên thực tế thì anh rất hiền, và trong tình yêu, thường là người thua cuộc, hoặc tự nguyện chịu thua cuộc. Trách người chỉ là trách nhẹ nhàng. Còn lại là trách mình. Thơ tình của anh vì vậy mà phổ cập, mà thành của chung. Ai đọc cũng thấy, cũng nghe được nhân dáng và kinh nghiệm của chính mình trong ấy. Từ thứ tình yêu reo vui, nhảy múa theo nhịp chân của "cô Bắc-kỳ nho nhỏ" cho đến tình yêu của người tuyệt vọng... anh nói thay mọi người bằng thánh ca của tình yêu. Nhưng đặc biệt là lúc khổ đau vì tình, thơ anh chùng xuống, gãy đổ, nát tan... và quả là anh đã đi thật sớm, trước thế hệ của anh, trong sự cảm nhận cũng như lối biểu đạt về tình yêu: Thiên thu
sao thiên thu không là xa nhau? nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập và một con đường cúp điện rất lâu! sao thiên thu không là chôn sâu? nên nắng xưa còn hanh mái tóc nhầu tôi đứng như xe tang ngừng ngập và một họ hàng khăn trắng buồn đau! sao thiên thu không là đường chim? nên mây năm xưa còn trên tay phiền tôi đứng như tường vôi luống tuổi và những tàng xanh chùm gởi quê hèn! sao thiên thu không là lãng quên? nên tình xưa còn cháy âm thầm tôi đứng như căn nhà nám lửa và những người thân trốn chạy vội vàng! sao thiên thu không là sương tan? nên mặt trời xưa còn gượng huy hoàng tôi đứng như dòng sông yên lặng và những cánh buồm kiệt sức lang thang! sao thiên thu không là thiên thu? nên những người yêu là những ngôi mồ tôi đứng một mình trong nghĩa địa và chắc không đành quên khổ đau! (1970) Trong thơ lục bát, anh vẫn theo vần nhịp cũ nhưng lối diễn đạt rất là thảnh thơi, thoải mái, tự nhiên như nói chuyện. Ðây, vần lục bát của hơn 30 năm trước: Nên thời gian ấy ngùi trông giọt mưa xanh mấy tuổi nàng tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa hơi tàn tro ấm lần đưa ba năm khơi lại cũng vừa đủ đau! sớm, trưa, chiều, tối, ra, vào người chưa yên nỗi thầm xao xác lòng nên thời gian ấy ngùi trông khô như hạt bụi trưa ngừng ngập bay... ba năm vuốt sợi tình dài ừ, tôi còn vụng ngón-tay-dậy-thì thuở nào sầu đã lâm ly giờ thêm già héo (nhiều khi hận thù!) lửa đom đóm mỏi mòn, lu nhưng tôi cứ buồn vi vu thổi hoài mưa thì mưa thả phai phai rồi sau đó sẽ một vài tang thương bởi quen cầm lược soi gương biết ai ôm gối mộng thường lâu chăng? giọt mưa xanh mấy tuổi nàng tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa... (1970) Hôm nay khi không tình não nùng buồn gót chân ai bỏ con đường nhớ nhung gót chân ai nhẹ vô cùng dẫm lên xác-lá-tôi từng tiếng kêu gót chân ai bước, nhẹ hều bước qua tôi, bước, hư nhiều thói quen! khi không tình não nùng buồn nhớ hôm qua vẫy tay ngừng ngập xa tóc ai ngắn ngắn, như là suốt đời chưa chịu thiệt thà chấm vai suốt đời khét nắng rong chơi kể như hơi hướm bàn tay tôi, thừa! mừng em sớm biết lọc lừa biết ngây thơ giả -- biết đùa với đau! biệt ly dù ở ga nào cho tôi ngồi một toa tàu lãng quên... (1974) Ðó là Nguyễn Tất Nhiên của tuổi hai mươi, với TÌNH qua tập Thơ Nguyễn Tất Nhiên; và bây giờ hãy đọc Nguyễn Tất Nhiên với TÂM qua Tâm Dung. Tập trước được xuất bản năm 1980 (gom lại những bài thơ cũ trước năm 1975 và một số ít cuối thập niên 70) khi anh mới vượt biên ra hải ngoại; tập sau được xuất bản 9 năm sau đó. Tựa tập thơ là Tâm Dung, bao gồm nhiều bài thơ bắt đầu bằng chữ TÂM (như Tâm khai, Tâm sân, Tâm hoa, Tâm xuân, Tâm hồng, Tâm hương, Tâm mưa, Tâm sương, Tâm ca, Tâm cảm...) được chính tác giả mở đầu bằng một đoạn rất thâm trầm về tư tưởng Phật giáo, khiến người đọc có cảm tưởng là sẽ được đọc một tác phẩm về Thiền vậy: "Dung, theo nghĩa dung chứa. Năm lần Phật chỉ cho ngài A Nan, tâm là cái thấy. Lấy cái thấy phân biệt để chỉ cái thấy vô phân biệt, lấy cái tâm vọng để chỉ cái tâm chơn, lấy ngón tay phàm phu để dụ như ngón tay Phật chỉ trăng. Kẻ trèo đèo này chỉ mong góp một cỏn con Phật sự, vọng động chăng? Chỉ mong quí thiện hữu niệm tình: vọng mà biết mình vọng, còn hơn không." Nguyễn Tất Nhiên (Westminster, Ca. ngày 12/01/89) Nhưng không. Dù mào đầu như thế, dù chọn lựa chủ đề và tựa đề như thế, thơ anh vẫn cứ là thơ, không phải là tập giáo nghĩa khô khan, cứng nhắc. Chỉ khác là anh đã chững chạc hơn (dĩ nhiên!), bớt bông đùa hơn, và trải đều lên những trang thơ là cõi lòng bát ngát của anh. Tâm nguyệt từ gót sen hài em hút dấu sầu tôi như lá thẫn thờ bay ví dù lá ngập đường em bước lá cũng xin đừng bận gót ai... từ mắt chia lòng sông cách núi sầu tôi như bụi khắp không gian ví dù bụi ố hoen màu trắng bụi cũng xin đừng vương mắt xanh... từ tóc bay xuôi dòng quá khứ sầu tôi như bóng lặng lờ trôi ví dù bóng đẳng đeo tròn kiếp bóng cũng xin dòng tóc thảnh thơi... từ hơi thở của không gian khác sầu tôi như lịch nhẩn nha rơi mỗi ngày thiên hạ hồn nhiên xé lịch mới, như tờ-thương-nhớ-tôi! từ hoa môi của bình minh khác núi đồi vắng cả tiếng thông reo chim thôi cười chúc mừng hoa lá thành-phố-tôi già ho động cơ từ vỡ, lành trăng lồng bóng nước từ em là nguyệt lộng đời sông từ tôi là một dòng tâm nguyệt sông có trăng cười sông xóa trăng... (06/01/1989) Tâm duyên 1. mùa hè anh lên núi thấy tóc em lành nhiên cười theo chiều, gió tối trời đi vào giấc yên cho sự sống duyên hiền từng búp hoa huệ nhỏ cho sự sống hương êm từng thoảng hoa huệ thở sự sống trắng tinh im từng nụ quan-âm nở im lặng là xin dâng tặng đời bông hoa nữa... mùa hạ anh ra đường thấy mới tinh tất cả thấy nắng nôi dịu dàng đang vuốt ve cây cỏ thấy cây cỏ dễ thương đang làm duyên, tóc xõa thấy lửa trời nung ngon chín bòn bon sự sống thấy sự sống nhịp nhàng theo đỏ, vàng, xanh, đỏ... thấy phố xá từ tâm đèn cười hoa ba đóa... (17/01/89) Rõ ràng là anh đã học ở đâu, từ những vật vô tri, từ người tình, từ cuộc đời, từ nỗi buồn đau, từ cơn thất chí, từ niềm tuyệt vọng, từ cơn bệnh tưởng, từ một nền đạo lý hun đúc tâm anh, hay từ tất cả những thứ trên: đức khiêm nhẫn và lòng tha thứ, chịu đựng vô cùng: Tịnh khúc buồn ơi... tôi bỏ tôi chìm đắm trong tiếng làm thinh của ghế bàn ghế bàn không sẻ chia sầu thảm nhưng biết làm thinh lặng cảm thông bàn ghế đâu như người vui nhảm tọc mạch đời nhau để miệng mồm buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế chịu đựng đời không biết thở than! buồn ơi... tôi bỏ tôi tàn tạ lạy đời xin một bận ngó lơ lần té nặng này tôi muốn giữ cho tim đừng hối hận trèo cao lần té nặng này tôi muốn sống buồn ơi, đừng giết chết tình nhau buồn ơi, tôi muốn hôn đời sống dù môi nhầu nứt nẻ thương đau! buồn ơi... tôi bỏ tôi ngây dại có phải thu-bồn chở tóc ai có phải lần run tay vuốt đại là lần đời biết thứ tha tôi có phải lần xin tay nắm... đại là lần té gập dưới bàn tay? buồn ơi, tôi muốn dâng đời sống một đóa hồng đau đớn tuyệt vời! buồn ơi... tôi bỏ tôi rời rã bất lực làm sao trước cuộc đời ừ nhỉ, trước giờ tôi chiến đấu cho niềm bất lực buổi hôm nay! ừ nhỉ, bây giờ tôi mới biết ghế bàn nên kính trọng như thầy bàn ghế dạy tôi điều nhẫn nhục dạy tôi bình thản thứ tha đời bàn ghế có bao giờ bất lực có bao giờ biết đợi trông chi buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế thương đời như thể bỉ khinh thôi! buồn ơi... tôi bỏ tôi gần chết tay đời bít lối chẳng ngưng tay u đầu sứt trán lao vào vách tội tình tôi sao nặng thế này? buồn ơi... trong đám đông tàn nhẫn một người chứng kiến đủ cho tôi nhờ ai, tôi đã thành tâm nhẫn nhờ ai, tôi phục dưới chân đời buồn ơi, tôi muốn như dòng lệ cay đời như kẻ thích ăn cay! buồn ơi... tôi có tôi-bàn-ghế nguyện hiến cho đời một tấm lưng (13/01/89) Ðiều anh học được, làm được, cũng cho ta học được. Một tấm lòng khiêm cung, khiêm nhẫn. Một tấm lòng bao dung, tha thứ, và trên hết, vẫn tiếp tục yêu thương con người, yêu thương cuộc đời. Sau đây là bài Tâm Dung, bài thơ được lấy đặt tên chung cho tập thơ. Bài thơ được đặt ở cuối tập. Không rõ sau bài này, Nguyễn Tất Nhiên còn những bài khác chăng. Nhưng đọc xong bài này, tôi nghĩ đời thơ của anh đến ngang đây cũng quá đủ rồi.Không cần phải thêm một bài nào nữa. Ðây không phải là một bài thơ tuyệt tác của nền văn học nước nhà, mà là lời tỏ tình tuyệt vời của một tín đồ thuần thành của tình yêu, suốt đời chỉ tận tụy yêu, và tụng đọc bài kinh yêu. Sau đây là vài trích đoạn: Tâm dung 1. có thể nào trẻ thơ sống bên ngoài lòng mẹ? có thể nào anh sống ngoài tầm mắt em? ... 4. vì người yêu thương trời đất cũng yêu thương, vì em đang ban phát yêu thương, vì anh cũng là thành phần muôn một của đất trời, nên cho dù em không hay không biết yêu thương vẫn thấm nhuần đều trên cuống đọt ngàn xanh dù em không biết không hay anh vẫn lan âm thầm khắp mặt địa cầu bất đồng khí hậu nhưng phải chăng em, nơi đá khô đất khó nào mà không diệp lục phải chăng em, đồng hoang man dã nào mà không có hoa chỉ tay em? vì em đang ban phát yêu thương nên anh khẩn xin là cọng cỏ được lần nào của chân em, tội nghiệp cho anh lòng còn ham muốn, tội nghiệp cho anh một đơn thân cỏ dại đòi chỉ riêng dành cho ngón ngón nhịp nhàng nhịp từng mỗi nhịp tim... 5. tình yêu sao mà đau khổ với khổ đau, toại nguyện phải chăng là hạnh phúc? em lý lẽ gần nhau tình sẽ chết, vậy người ta sinh ra, sống, để làm chi? 6. anh cô đơn ca hát vu vơ lời gì vô ý chỗ đám đông nơi con người dễ dàng phỉ báng kẻ điên khùng, ấy chết, anh chẳng thể viện lý do cuộc sống vắng em, dù em sẽ tin, nhưng thảm trải dưới chân có lời nào giải thích? dưới chân tình yêu, anh xin thành khẩn hứa chịu đựng ngang nhau hết thảy kẻ thân, thù. ....... 10. anh muốn dụi tóc vào những ngón tay em cho hiện ra vài điểm bạc, cho thời gian đẹp phôi phai, cho sen lòng anh ngày mỗi thêm một đóa, cho hoa huệ hoa trang em đong đưa ngần ấy búp nhỏ đơm hương cho gió tình thơm tho không phân biệt chiếm hữu, tự do. 11. mặt đất kia phù sa đắp bồi cho lúa no hạt mởn mơ bông, ruộng lòng anh đòng đòng tươm mắn sữa vì em là mưa hạ nắng đông là suối sông nguồn lượng cho rễ ngon khoáng chất trẩy hoa cành, vườn lòng anh xanh ngát tận chân trời vì em là yêu thương không phân biệt hoa nào là hoa hạnh phúc quả nào là quả đau thương. 12. buổi sáng tinh khôi bừng mắt dậy thấy hoa lá không tên bóng động hình bên cửa sổ đùa gió vui sương, môi cười theo hồn nhiên nụ, hoa cười hay anh cười? trưa trưa rực nắng chan vàng đồng hướng dương hực vàng một cánh ngút ngàn chân mây, những nụ cười hàm tiếu tròn đầy, anh cười hay hoa cười? chiều chiều nghiêng nghiêng nắng dịu nghiêng nghiêng mình chào người và người chào đáp lại, người cười hay tim cười? buổi tối anh ngon lành êm ả ngủ, thở đều hòa nơi một kẽ ngón chân em, em thở hay anh thở... (19/01/89) Sau đó không thấy thơ Nguyễn Tất Nhiên nữa. Rồi một hôm, nghe tin anh mất. Trên chiếc xe cũ, đậu dưới bóng cây, trong vườn một ngôi chùa. Ðời anh, lúc nào cũng đi sớm hơn kẻ khác. Ðời không ruồng bỏ anh, cũng chẳng người tình nào ruồng bỏ anh (không ai có thể ruồng bỏ một người đáng yêu như thế! mà cũng chẳng ai có thể ruồng bỏ được một gã yêu tha thiết, yêu miệt mài, yêu thủy chung suốt đời như thế!). Chỉ có anh, tự ý đi thật sớm, rời bỏ cuộc đời, để lại một cõi thơ bát ngát. Không cần phải tội nghiệp cho anh, và đừng tưởng anh khổ đau cùng tận! Anh là kẻ hạnh phúc vô cùng tận với tình yêu bất diệt và tấm lòng bao dung hiếm có. Và thơ anh, đã hóa thân khắp nơi khắp chốn: là ngọn cỏ mềm, là gió mơn man, là dòng sông êm, là bàn ghế lặng thinh, là đất trời mênh mang vô hạn... Nơi đó, có đủ hương vị của tình yêu cũng như những hỉ, nộ, ái, ố... bình thường của một con người, dù là con người thi sĩ, hay văn sĩ. Nhưng tất cả đều được dung chứa trong một cõi lòng thật rộng. Có thể nói, giới hạn giữa sống-chết, qua Tâm Dung ấy, không còn nữa. Mời nghe một số tác phẩm của Nguyễn Tất Nhiên . Vì Tôi Là Linh Mục Thà như Giọt Mưa Em Hiền Như Ma Sœur Trúc Đào Cô Em Bắc Kỳ Nho Nhỏ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét