Mời các bạn nghe đọc thơ Xuân Diệu
Thơ Xuân Diệu (Phần 1)
Thơ Xuân Diệu (Phần 2)
Tiểu sử
Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2 tháng 2, 1916 tại Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha là ông Ngô Xuân Thọ (giáo viên), người làng Trảo Nha, Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.
Xuân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938-1940). Ông tốt nghiệp cử nhân Luật 1943 và làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho một thời gian trước khi chuyển về ở Hà Nội.
Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ Ngày Nay và Tiên Phong. Ông là một trong những người sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam.
Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, “ông hoàng của thơ tình”.
Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào “Thơ Mới”. Tác phẩm tiêu biểu của ông ở giai đoạn này: Thơ Thơ (1938), Gửi Hương Cho Gió (1945), truyện ngắn Phấn Thông Vàng (1939).
Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc.
Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một “dòng thơ công dân”. Bút pháp của ông chuyển biến phong phú về giọng vẻ: có giọng trầm hùng, tráng ca, có giọng chính luận, giọng thơ tự sự trữ tình. Tiêu biểu là: Ngọn Quốc Kỳ (1945), Một Khối Hồng (1964), Thanh Ca (1982), Tuyển Tập Xuân Diệu (1983).
Là cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam, Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.
Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm 1983.Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (1996).Ông mất ngày 18 tháng 12, 1985
Bình luận về thơ Xuân Diệu
Có lẽ chẳng ai làm thơ tình ướt át, lãng mạn và... điệu đà ẻo lả như nhà thơ này. Nhiều thế hệ học trò, cho đến văn thi nhân hậu bối, đă mê thơ ông, thuộc thơ ông. Có người còn mượn thơ ông để tỏ tình nữa; vì bài thơ nào của ông cũng nói đến tình yêu mà lại là thứ tình yêu rất lạc quan, lúc nào cũng thành công, hạnh phúc, hả hê, hài lòng... thứ tình yêu của tuổi mới lớn, của người mới biết yêu lần đầu, tò mò, bồn chồn, hăm hở tìm chọn những phương thức tỏ bày.
Cho dù trong định nghĩa chữ Yêu, ông nói là "chết ở trong lòng một ít" nhưng cũng chẳng thấy hơi thơ ông nhuốm màu khổ đau chi cả. Ông còn sung sướng được chết một ít trong lòng nữa là đàng khác. Ðọc thơ ông, tôi không thấy buồn (dĩ nhiên không phải đọc thơ thì phải buồn), chỉ thấy vui là vui chúng mình vui nhiều. Giống như đọc truyện kể về những cặp trai gái yêu nhau.
Càng về sau, thời hậu chiến, nghĩa là sau cái thời thơ ông rộ nở và chiếm lĩnh đài vinh quang của thi đàn Việt-nam, cho đến thời kỳ đất nước chia đôi, rồi tái thống nhất dưới ngọn cờ đỏ, thơ ông cứ thế mà nhạt dần theo năm tháng. Ông không còn nói được cái tình yêu đôi lứa chung cho mọi người mà chỉ nói cho thân phận, hoàn cảnh riêng của mình; thỉnh thoảng có nói về cái tình chung nào thì đó lại là cái tình yêu đối với cái mình không yêu mà phải giả đò yêu, hoặc yêu lầm mà cứ tiếp tục ca tụng cái yêu lầm lỡ ấy...
Dù sao, có một thời thơ ông đă mơn trớn dựng xây bao cuộc tình, khích lệ yêu với thương, gỡ rối tơ lòng (hàm thụ) cho bao tâm hồn non trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời. Và lác đác những đoạn thơ của ông đă từng được chép một cách trân trọng trên giấy tập học trò, và chen vào những lá thư tình vụng dại, trích dẫn nơi những bài luận văn...
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu...
(Vì sao)
Dù không cắt nghĩa được tình yêu lúc ấy, nhưng đến một lúc dày dạn kinh nghiệm hơn, ông đã cho lớp người sau một định nghĩa về tình yêu, và định nghĩa này dường như được mặc nhiên công nhận như là định nghĩa phổ quát đối với nhiều tầng lớp đang yêu và đã yêu. Ðịnh nghĩa đó nằm trong bài thơ Yêu của ông. Có thể nhiều người sẽ không thuộc hết bài, nhưng ít ra cũng thuộc câu đầu, câu chót, và cứ lấy đó làm thần phù khi bàn nói về chữ Yêu:
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt
Tưởng trăng tròn, hoa tạ, với hồn tiêu
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
- Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt,
Những người si theo dõi dấu chân yêu
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
(Yêu)
Chết trong lòng một ít là thứ tình yêu xa hoa, thứ tình yêu của kẻ thắng thế, của những kẻ có thể phụ bạc người yêu bất cứ lúc nào. Yêu mà chỉ chết trong lòng một ít thì chẳng lấy gì tha thiết lắm. Trên thực tế thì dù được, dù mất, một tình yêu sâu đậm thế nào cũng làm chết cả lòng chứ không chỉ chết một ít. Yêu hời yêu hợt mới chết một ít. Yêu đắm yêu đuối thì chết cả một đời. Cho nên, cái tình yêu chết một ít đó, có vẻ không thật. Cả những mối tình sóng bước dưới trăng, hồn lâng lâng, nhè nhẹ, lặng lẽ bước trong thơ... cũng có vẻ yểu điệu làm dáng, không thật. Chỉ có cái tình thật nhất, đẹp nhất, trung thực nhất mà Xuân Diệu lột tả được một cách xuất thần, đó là mối tình vu vơ tuyệt vọng của người kỹ nữ. Ðọc bài này, người ta sẽ cám cảnh thương cho những duyên phận bẽ bàng, thương đau; mà cũng cám ơn ngọn bút tài hoa của thi nhân đã nói giùm tâm cảnh, hoàn cảnh xót xa của đời những người con gái ăn sương, hương sắc tàn phai theo năm tháng... Mỗi ngày mỗi đêm, tuổi xuân rơi rụng dần mà không tìm thấy chút hy vọng nào cho một hạnh phúc nhỏ nhoi; tìm quên trong cảm giác hầu hạ phục tùng những tấm chồng tạm bợ cũng không sao khỏa lấp đuợc nỗi cô đơn truyền kiếp và cái định mệnh khắt nghiệt đã đóng nặng dấu ấn vào tim. Họ bám víu, bám víu... nhưng không giữ đuợc gì. Ôm ấp từng khách lạ để tìm hơi ấm hạnh phúc hão huyền. Tình yêu là đâu? Tình yêu là gì? Không chết đi một ít mà chết ở tận cùng con tim. Con tim cũng đã mất đi hình dạng của nó. Sống vật vờ như thế với từng đêm mộng mị chiêm bao. Mỗi sớm mai thức dậy, nhìn thấy sông trôi, người chồng một đêm cũng trôi, cuộc tình tạm bợ cũng trôi đi trong đôi mắt run mờ. Ðây, bài Lời Kỹ Nữ của Xuân Diệu:
Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa
Vội vàng chi, trăng sáng quá, khách ơi!
Ðêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời
Khách không ở, lòng em cô độc quá.
Khách ngồi lại cùng em, đây gối lả
Tay em đây mời khách ngả đầu say
Ðây rượu nồng. Và hồn của em đây
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
Chớ đạp hồn em!
Trăng từ viễn xứ
Ði khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn
Gió theo trăng từ biển thổi qua non;
Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn
Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn.
Chớ để riêng em phải gặp lòng em;
Tay ái ân du khách hãy làm rèm
Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt võng
Ðẩy hộ hồn em triền miên trên sóng
Trôi phiêu lưu không vọng bến hay gành;
Vì mình em không được quấn chân anh
Tóc không phải những dây tình vướng víu
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
Lời kỹ nữ đă vỡ vì nước mắt
Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi
Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi
Gỡ tay vướng để theo lời gió nước.
Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi
Du khách đi -
Du khách đă đi rồi.
(Lời Kỹ Nữ)
*
Dầu sao, vào những lúc tâm hồn thơ thới lâng lâng bởi một duyên tình nào đó, cũng nên đọc vài bài thơ tình của Xuân Diệu, có thể sẽ được bồi thêm một ít phấn chấn hay nên thơ nào chăng? Hoặc ít ra cũng gợi nhớ một dĩ vãng mộng mơ nào đó mà trong đời ai cũng một lần kinh qua...
Nguyên Ðán
Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đến đã lâu rồi;
Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
Chiều
Hôm nay, trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn...
Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn,
Sương trình rơi kín từ nguồn yêu thương.
Phất phơ hồn của bông hường,
Trong hơi phiêu bạt còn vương máu hồng.
Nghe chừng gió nhớ qua sông,
E bên lau lách thuyền không vắng bờ.
Không gian như có dây tơ,
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu.
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều,
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn...
Tương Tư Chiều
Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm
Anh nhớ em, em hỡi! anh nhớ em
Không gì buồn bằng những buổi chiều êm
Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối
Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành
Mây theo chim về dãy núi xa xanh
Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ.
Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.
Thôi hết rồi! còn chi nữa đâu em!
Thôi hết rồi, gió gác với trăng thềm,
Với sương lá rụng trên đầu gần gũi,
Thôi đã hết hờn ghen và giận dỗi,
(Ðược giận hờn nhau, sung sướng bao nhiêu!)
Anh một mình, nghe tất cả buổi chiều
Vào chậm chậm ở trong hồn hiu quạnh.
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm.
Hoa Nở Ðể Mà Tàn
Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết
Bèo hợp để chia tan
Người gần để ly biệt.
Hoa thu không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in nét đau.
Tả cảnh tả người cỡ như bài này thì tuyệt:
Thu
Nõn nà sương ngọc quanh thềm dậu
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì.
Hư vô bóng khói trên đầu hạnh;
Cành biếc run run chân ý nhi.
Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà
Buồn ở sông xanh nghe đã lại
Mơ hồ trong một tiếng chim qua.
Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm
Hây hây thục nữ mắt như thuyền.
Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.
Và bài sau đây, dù sáng tác thời tiền chiến, để nói cái bẽ bàng của một đời hương sắc/tài hoa (của giai nhân? hay nghệ sĩ?) khi trao gửi thân phận/tài năng của mình không đúng chỗ, thì chừng mười mấy năm sau đó, lại thấy có vẻ như ứng vào hoàn cảnh chung của những nghệ sĩ, những văn công, không thể đóng góp tài năng của mình cho văn học nghệ thuật nữa, mà phải dùng tài năng của mình để tô son thếp hồng cho một bộ máy. Ðọc bài này để tiếc thương cho những nghệ sĩ tài hoa một thời:
Gửi Hương Cho Gió
Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Ðem gửi hương cho gió phụ phàng!
Mất một đời thơm trong kẽ núi
Không người du tử đến nhằm hang!
Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều,
Là truyền tin thắm gọi tình yêu.
Song le hoa đợi càng thêm tủi,
Gió mặc hồn hương nhạt với chiều.
Tản mác phương ngàn lạc gió câm
Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm.
Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá,
Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm.
Tình yêu muôn thuở vẫn là hương
Biết mấy lòng thơm mở giữa đường
Ðã mất tình yêu trong gió rủi
Không người thấu rõ đến nguồn thương!
Thiên hạ vô tình nhận ước mơ
Nhận rồi không hiểu mộng và thơ...
Người si muôn kiếp là hoa núi
Uống nhụy lòng tươi tặng khách hờ.
I am very impressed with your blog and just would like to say thanks for all efforts you have put in creating it. I am sure it must have taken you a great deal of time for it to look like what it is now. Take care and keep up your good work. I am one of your followers now.
Trả lờiXóa