Gia đình chúng tôi xin thành tâm cảm ơn đến tất cả quý thân
hữu, nhờ sự phúng điếu của quý vị, gia đình đã lập được nguồn quỹ từ thiện, xin
được đặt tên là: “Quỹ từ thiện gia đình Từ Lạc và các thân hữu”.
Trước mắt, quỹ sẽ tài trợ 100% xây dựng lại một cây cầu tại ấp
15, xã Vĩnh Lợi, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng. Cầu cũ đã hư hỏng có chiều rộng
1,5m, chiều dài 23m. Cầu mới sẽ có chiều rộng 3,5m, chiều dài 23m, đã khởi công
xây dựng vào ngày 11/09/2024, dự kiến sẽ hoàn thành trong vòng 2 tháng. Đây cũng là cây cầu số 28 trong loạt cầu mà gia đình đã tham gia xây dựng, mang tên cầu Pháp Huệ.
Gia đình chúng tôi sẽ tổ chức đến tận nơi xem xét việc thi
công và khánh thành khi hoàn tất.
Giữa một thế giới được coi là trên đường tục hóa, chạy theo vật chất và lãng quên Thiên Chúa, thì trong đời sống Hội thánh xuất hiện một tín hiệu vui mừng, đó là ngày càng có nhiều người quan tâm và yêu thích đời sống cầu nguyện. Thiên Chúa là Sự Sống và là Tất Cả, nên cần cầu nguyện để nuôi dưỡng đời sống, để thánh hiến thế giới cho Thiên Chúa, để đón nhận năng lực cho hoạt động tông đồ và truyền giáo.
Cầu nguyện là sự sống của một trái tim mới. Cầu nguyện phải làm cho chúng ta được sống động mọi lúc. Tuy nhiên, chúng ta lại quên Đấng là Sự Sống và là Tất Cả của chúng ta. Vì thế, các bậc thầy linh đạo, theo truyền thống của Đệ Nhị Luật và của các tiên tri, đều nhấn mạnh đến việc cầu nguyện như là “nhớ đến Thiên Chúa”, là thường xuyên đánh thức “ký ức của trái tim”. “Chúng ta phải nhớ đến Thiên Chúa thường xuyên hơn là chúng ta hít thở”. Nhưng chúng ta không thể cầu nguyện “trong mọi lúc”, nếu không có những thời điểm chủ ý dành để cầu nguyện: Đây là những nhịp mạnh của kinh nguyện Kitô giáo, chuyên chú và kéo dài hơn. (Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2697).
Phần đông các tín hữu Công giáo Việt Nam yêu thích cầu nguyện, nhưng nhiều lúc không biết cầu nguyện thế nào, vì thế, cần một sự hỗ trợ để giúp cầu nguyện. Quyển “Kinh nguyện gia đình và Gia lễ Công giáo” của linh mục Gioan Phêrô Võ Tá Khánh là một cố gắng tổng hợp các lời cầu nguyện trong Hội thánh, với những lời kinh, thánh ca và thánh vịnh quen thuộc, để giúp anh chị em giáo dân sống trong gia đình biết cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh và biến cố của đời sống cá nhân, gia đình và xã hội.
Nếu biết cầu nguyện với đức tin vững mạnh và lòng mến nồng nàn, các cá nhân cũng như gia đình Kitô hữu chắc chắn sẽ được biến đổi và thánh hóa, được sống bình an và hạnh phúc đích thực. Cách riêng trong bối cảnh của chương trình mục vụ “Tân Phúc âm hóa đời sống xã hội” đã được Hội đồng Giám mục Việt Nam đề ra cho năm 2016, những lời cầu nguyện của Kitô hữu trong đời sống xã hội và cho xã hội chính là một cách thế quan trọng để thánh hóa xã hội và đưa thế giới này về cùng Thiên Chúa là Cội Nguồn tối hậu.
Độc giả sẽ thấy trong tập sách này các lời cầu nguyện trong những dịp đặc biệt theo phong tục và truyền thống văn hóa Việt Nam, như ma chay, cưới hỏi... Thật khó mà xác định những gì là truyền thống văn hóa đích thực và những gì do người ta thêm thắt theo cảm tính chủ quan. Có những điều trái nghịch đức tin Công giáo, các Kitô hữu không được theo. Ngược lại, có những yếu tố chân thiện mỹ trong văn hóa đã được Hội thánh chấp nhận, nhưng nhiều Kitô hữu lại không dám thực hành. Tác giả đã thận trọng phân biệt: Đâu là phong tục của người Việt, những gì người Công giáo được phép hay không được phép làm. Vì không nắm vững đạo lý đức tin và giáo huấn Hội thánh, nhiều anh chị em Kitô hữu cảm thấy lúng túng không biết xử sự thế nào khi dự các nghi thức kính nhớ tổ tiên. Điều này đôi lúc đã tạo nên những ấn tượng không đẹp về những người con, người cháu trong gia đình và dòng tộc, về đạo Công giáo, và từ đó làm ảnh hưởng không nhỏ đối với công cuộc loan báo Tin Mừng.
Tác giả đã mạnh dạn đưa ra những mẫu hướng dẫn người Công giáo cầu nguyện thế nào để vừa trung thành với đức tin Công giáo vừa giữ bản sắc văn hóa Việt Nam. Đây cũng là một nỗ lực hội nhập văn hóa theo nghĩa đầy đủ trong tương quan hai chiều: Đưa Tin Mừng vào văn hóa, để vừa diễn tả đức tin bằng những nét đẹp văn hóa vừa biến đổi và thăng hoa văn hóa lên đến tầm cao của Tin Mừng.
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày công bố sắc lệnh về Truyền giáo của Công đồng Vaticanô II (1965-2015), tập sách này là một đóng góp có ý nghĩa vào công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam. Quả thực, như lời của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, “đức tin mà không trở thành văn hóa là đức tin chưa được chấp nhận hoàn toàn, chưa được suy cho thấu và chưa được sống tới cùng”. (Thư thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, ngày 20-5-1982).
Xin trân trọng giới thiệu tập sách cầu nguyện này, đặc biệt với các gia đình Công giáo. Nguyện xin Chúa chúc lành cho công trình của tác giả được trổ sinh nhiều hoa trái trong Hội thánh và nơi anh chị em lương dân.
Suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã gởi các ngôn sứ và các Thánh tới nhắc bảo và hướng dẫn Dân Ngài. Ngày nay cũng vậy, Thiên Chúa gởi các Thánh tới để khai sinh các dòng tu nam nữ đáp ứng các nhu cầu đặc biệt. Thiên Chúa đã gởi các vị tử đạo đến để làm chứng nhân cho đức tin, đã gởi các trinh nữ đến để làm người bảo vệ sự trinh khiết, và những con người thánh như Don Bosco, để dạy về nhân đức và sứ vụ tông đồ cho một thành phần đặc biệt của Dân Chúa, đó là giới trẻ.
Cha Thánh Gioan Bosco tên đầy đủ là Giovanni Melchiorre Bosco, sinh ngày 16 tháng 8 năm 1815 tại làng Becchi, thuộc tỉnh Piémont, miền Bắc nước Ý, trong một gia đình nông dân nghèo.
Năm 1835, ông vào Đại chủng viện Torino, được thụ phong linh mục 6 năm sau đó, vào ngày 5 tháng 6 năm 1841(26 tuổi). Sau khi chịu chức, ông khởi đầu mục vụ tông đồ bằng cách đi thăm các Trại Giáo hóa dành cho các thanh thiếu niên phạm pháp tại Giáo phận Torino.
Năm 1859, Gioan Bosco cùng với các đồng chí của mình chính thức thành lập Hội dòng của Thánh Phanxicô Đệ Salê (tiếng Latin: Societas Sancti Francisci Salesii), với hàm ý noi gương Đức ái Tông đồ, sự Hiền lành và lòng kiên nhẫn. Ngày 25 tháng 3 năm 1855, Micae Rua trở thành tu sĩ đầu tiên thực hiện lời tuyên khấn dòng. Năm 1860, Giuse Rossi trở thành Sư huynh đầu tiên được đón nhận vào Dòng. Sau đó, ngày 14 tháng 6 năm 1862, 22 tu sĩ Salêdiêng khác đã thực hiện lời tuyên khấn.
Gioan Bosco cũng đã thành lập Dòng Con Đức Mẹ phù hộ (còn được gọi là Dòng Nữ Salêdiêng Don Bosco) vào ngày 5 tháng 8
năm 1872. Năm 1876, ông thành lập Hiệp hội Cộng tác viên Salêdiêng. Ba Nhóm này và nhiều Nhóm được thành lập sau này liên kết với nhau thành Gia đình, một tổ chức xã hội Công giáo thống nhất.
Vào năm 1872, ông tiếp tục lập thêm hai hội dòng khác: Hội Đức Mẹ hằng Cứu giúp để
bảo trợ ơn gọi linh mục; Hội Dòng nữ Salésienne nhằm giáo dục các em cô nhi. Các tổ chức này có tầm ảnh hưởng rộng khắp ngay khi ông còn tại thế
Gioan Bosco lâm bệnh và qua đời ngày 31 tháng 1 năm 1888 tại Torino, hưởng thọ 73 tuổi. Ghi nhận những công lao của ông với giáo hội và xã hội, 1909 được phong Á thánh, 2/6/1929 được phong Chân phước và 1/4/1934, Đức Giáo hoàng Piô XI đã phong ngài lên bậc hiển thánh với biệt hiệu: CHA và THẦY của thanh thiếu niên.
Thánh Tôma Aquinô được Giáo Hội mừng kính vào ngày 28/01, xin giới thiệu cuốn sách: THÁNH TÔMA AQUINÔ - Câu chuyện "Con bò câm" của tác giả Mary Fabyan Windeatt, do Học Viện Đa Minh chuyển ngữ và phát hành.
Cuốn sách nhỏ viết về Thánh Tôma Aquinô, với biệt hiệu là “Con bò câm” do các bạn đồng môn gán cho với hàm ý trêu chọc, coi là anh chàng ngố. Nhưng không ai có thể ngờ rằng sẽ đến lúc “Con bò câm” ấy, đúng như tiên báo của thầy Anbêtô, có thể rống thật to bằng những suy tư triết học, thần học thật uyên thâm.
Tôma Aquinô là – một tu sĩ Đa Minh thánh thiện – một triết gia, một thần học gia lỗi lạc – một thi nhân sáng tác những bản văn phụng vụ – một thầy dạy tuyệt vời của Giáo hội – và vì thế, được đặt làm quan thầy các trường học Công giáo trên toàn thế giới.
Từ lâu, người ta vẫn cho rằng Sáng thế ký và thuyết Big Bang là không thể tương đồng. Tuy nhiên, Daniel Friedmann, tác giả cuốn sách ‘Đồng hồ Kinh thánh’ (Biblical Clock) – cuốn sách Best Seller trên toàn thế giới về mật mã của Sáng thế ký – lại cho thấy khoa học và Kinh thánh có sự tương đồng.
Sáng thế ký (Genesis) – cuốn sách nói về Sự sáng tạo của Thiên Chúa (Sáng Thế Chủ) đối với vũ trụ, con người và vạn sự vạn vật đã được giảng dạy cho hàng tỷ người theo Do Thái giáo và Kitô giáo trên toàn thế giới hàng nghìn năm nay. Trong khi đó các nhà khoa học cũng đưa ra thuyết Big Bang (Vụ nổ lớn) để giải thích sự hình thành của vũ trụ.
Daniel Friedmann có một sự nghiệp danh giá, ông sinh ra ở Chile và lớn lên ở Canada. Ông đã từng là Chủ tịch và CEO trong 20 năm của MDA – một công ty công nghệ truyền thông được NASA lựa chọn để xây dựng hệ thống cánh tay robot Dextre cho việc sửa chữa trạm không gian quốc tế ISS và kính viễn vọng Hubble. Friedmann hiện là Chủ tịch của công ty Carbon Engineering. Ông là một kỹ sư chuyên nghiệp và có bằng thạc sĩ về vật lý kỹ thuật.
Friedmann có 30 năm kinh nghiệm trong ngành khoa học vũ trụ, đã làm việc cho các dự án ở 15 quốc gia và tiến hành nghiên cứu khoa học sâu rộng trong nhiều thập kỷ. Ông đã xuất bản hơn 20 bài báo khoa học được bình duyệt (peer review) về các chủ đề vũ trụ và vũ trụ học. Là một tín đồ tôn giáo lâu năm, Friedmann dành nhiều thời gian cho việc “hoà giải” những bất đồng giữa Kinh thánh và khoa học bằng cách sử dụng công thức “Đồng hồ Kinh thánh” đã được báo cáo trên nhiều tờ báo, tạp chí và chương trình phát thanh.
Dưới đây là một số quan điểm của Daniel Friedmann về sự tương đồng giữa Kinh thánh và Khoa học trong việc giải thích sự hình thành của vũ trụ:
Vũ trụ không vĩnh cửu
Trong phần lớn lịch sử nhân loại, các nhà khoa học chủ yếu tin rằng vũ trụ là vĩnh cửu và không thay đổi. Aristotle trong thế kỷ thứ tư trước Công nguyên đã khẳng định rằng thế giới không có điểm bắt đầu hay kết thúc. Nhưng cũng có quan điểm trái ngược với ông, cho rằng vũ trụ là có sự khởi đầu.
Các tác phẩm của Aristotle đã bị thất lạc phần lớn trong khoảng bảy thế kỷ, nhưng bắt đầu hồi sinh vào thế kỷ thứ mười ba. Quan điểm vũ trụ vĩnh cửu sau đó thống trị khoa học cho đến đầu thế kỷ XIX.
Quan điểm này đã khiến Albert Einstein đưa ra điều mà ông coi là sai lầm lớn nhất trong sự nghiệp của mình. Ngay sau khi Einstein phát triển lý thuyết tương đối tổng quát (1915), Alexander Friedmann, một nhà toán học người Nga, đã giải các phương trình của Einstein cho toàn vũ trụ (phiên bản đầu tiên của lý thuyết Vụ nổ lớn – Big Bang), cho thấy những phương trình đó có nghĩa là vũ trụ đang giãn nở.
Nếu đây là sự thật, nó hẳn đã được mở rộng từ một điểm bắt đầu, do đó, nó không thể là vĩnh cửu. Einstein sau đó đã sửa đổi các phương trình của mình, khiến chúng cho thấy vũ trụ là tĩnh và vĩnh cửu.
Năm 1929, Edwin Hubble, một nhà thiên văn học tại Viện Công nghệ California, đã phát hiện ra vũ trụ đang thực sự giãn nở. Einstein sau đó đã bỏ các sửa đổi và quay trở lại các phương trình ban đầu.
Nhưng bằng cách tuân thủ quan điểm vĩnh cửu trong thời gian tạm thời, ông đã bỏ lỡ dự đoán một trong những khám phá lớn nhất trong vũ trụ học: sự mở rộng vũ trụ. Từ thời điểm đó, khoa học cho rằng vũ trụ của chúng ta có thời điểm bắt đầu và các nhà khoa học đã tập trung vào lý thuyết Big Bang.
Sơ đồ tạo ra vũ trụ từ Vụ nổ lớn bên trái – đến hiện tại.
Kinh thánh ngay từ đầu đã nói, “Khởi đầu, Thiên Chúa đã tạo ra Thiên đàng và Trái đất…”, nghĩa là vũ trụ có điểm khởi đầu. Chúng ta hãy xem xét những gì khoa học đã biết về cách vũ trụ khởi đầu, sau đó là những gì Kinh thánh nói.
Sự sáng tạo như các khối cơ bản (Building Blocks)
Các nhà khoa học dường như đã hiểu được các khối cơ bản của vũ trụ bằng cách liên tục tách rời mọi thứ cho đến khi có được những phần không thể chia nhỏ hơn nữa: các hạt cơ bản, chẳng hạn như electron. Để làm điều này, chúng ta đã chế tạo máy gia tốc hạt để làm cho các hạt va chạm với tốc độ ánh sáng, sau đó phân tích kết quả.
Sự phá vỡ các hạt không chỉ tiết lộ những hạt mới, nó cũng cung cấp cho các nhà vật lý manh mối về cách các hạt tương tác và cái nhìn sâu sắc về các lực cơ bản và quy luật tự nhiên. Trong trường hợp của proton, chúng ta phát hiện ra rằng nó được tạo thành từ ba hạt quark, mà với kiến thức hiện tại, các nhà khoa học tin là các hạt cơ bản. Gần đây, tại CERN (Tổ chức nghiên cứu hạt nhân châu Âu), Máy gia tốc hạt lớn (HLC) đã tìm ra boson Higgs , một hạt cơ bản mà trước đó chỉ được suy đoán trong giả thuyết.
Sự kiện phát hiện boson Higgs từ va chạm giữa các proton trong LHC.
Sự kiện bên trên trong thí nghiệm CMS cho thấy sự phân rã thành hai photon
– các đường màu vàng đứt nét và các khối màu xanh lá cây.
Sự kiện bên dưới trong thí nghiệm ATLAS cho thấy sự phân rã thành bốn muon
(1 trong 6 loại hạt nhẹ) – vệt màu đỏ.
Tại sao lại có 2 hạt quark, một electron…? Và tại sao chúng có các thuộc tính như khối lượng và điện tích với các giá trị cụ thể? Câu trả lời ngắn gọn là chúng ta không biết; Đó đơn giản là những gì chúng ta phát hiện được bằng cách phá vỡ vật chất.
Khi chúng ta nhìn vào bầu trời đêm, chúng ta không chỉ chiêm ngưỡng những ngôi sao lấp lánh và các hành tinh phát sáng, chúng ta thực sự đang nhìn vào quá khứ. Phải mất một khoảng thời gian hữu hạn để ánh sáng đi đến mắt của chúng ta, mặc dù thông thường chúng ta không nhận thấy điều này. Ánh sáng truyền đi với tốc độ khoảng 300.000 km mỗi giây, vì vậy khi chúng ta nhìn vào mặt trời, chúng ta đang nhận được ánh sáng rời khỏi mặt trời khoảng 8 phút trước đó. Nếu mặt trời đột ngột tắt, chúng ta sẽ chỉ biết điều đó sau 8 phút.
Khi chúng ta nhìn vào các ngôi sao hoặc thiên hà khác, chúng ta thấy ánh sáng của nó có lẽ cách đây đã 5 năm trước, 100 năm trước, hoặc một tỷ năm trước. Mỗi vật thể trên bầu trời đêm mà chúng ta đang thấy là hình ảnh của chúng ở một thời điểm trong quá khứ, thời điểm khác nhau cho mỗi đối tượng, tùy thuộc khoảng cách của chúng. Vì vậy, khi chúng ta nhìn vào vũ trụ, dường như chúng ta đang nhìn thấy những bức ảnh chụp các phần khác nhau vào các thời điểm khác nhau: Trái đất trông như hiện tại, mặt trời như cách đây 8 phút, trung tâm của Dải Ngân Hà ở thời điểm 26.000 năm trước, v.v. Ngày nay, với Kính viễn vọng không gian Hubble, chúng ta có thể thấy ánh sáng còn lại 13 tỷ năm trước, rất gần với thời điểm khởi đầu của vũ trụ theo quan điểm của khoa học.
Kính viễn vọng Hubble phóng lên năm 1990
Các nhà khoa học nghiên cứu vũ trụ áp dụng cả hai cách tiếp cận: họ tách rời vật chất để khám phá các hạt và lực cơ bản của tự nhiên, và họ nhìn vào các ngôi sao và thiên hà để ghép lại thành những bức tranh về vũ trụ trong nhiều thời điểm khác nhau trong lịch sử. Kết hợp các kết quả của các phương pháp này, các nhà khoa học đạt được sự hiểu biết về cách vũ trụ hình thành và vũ trụ hiện nay ra sao, và họ gói gọn kiến thức này dưới dạng toán học: lý thuyết Big Bang.
Sự sáng thế trong Kinh thánh và thuyết Big Bang
Tuy nhiên, khi ngoại suy ngược thời gian với lý thuyết Big Bang, chúng ta có thể tới thời điểm gần như bắt đầu nhưng không phải điểm bắt đầu. Như nhà vật lý và tác giả Brian Greene giải thích trong cuốn sách bán chạy nhất của mình: “Lý thuyết Big Bang mô tả quá trình tiến hóa vũ trụ từ thời điểm một phần của một giây sau khi điều gì đó đã xảy ra khiến vũ trụ tồn tại, nhưng nó không nói gì cả về điểm thời gian bằng không”; thay vào đó, “chúng ta đã không tìm hiểu về sự khởi đầu của thời gian”.
Nói tóm lại, khoa học có một sự hiểu biết to lớn về cách vũ trụ phát triển từ một phần của một giây sau khi bắt đầu. Nhưng họ không biết vũ trụ bắt đầu thế nào – thời gian đã tồn tại thế nào, không gian đã hình thành như thế nào – cũng như tại sao các lực tự nhiên là như vậy hoặc tại sao chúng ta có các hạt cơ bản nhất định với các đặc tính hiện có. Nhiều cách tiếp cận khác nhau đã được đề xuất, chẳng hạn như tồn tại đa vũ trụ, nhưng không có cách nào trong số chúng đạt được sự đồng thuận khoa học hoặc là có thể kiểm chứng được tại thời điểm này.
Tuy nhiên, có một sự hiểu biết rằng vũ trụ là “không có gì – hư vô – nothing”. Nhưng theo cách hiểu này, thì “không có gì” thực sự vẫn có nghĩa là “có gì đó”, tối thiểu là trọng lực và không gian. Thông thường, cái “không có gì” nói đến “chân không lượng tử – quantum vacuum”, là trạng thái rất sớm của vũ trụ trong phần đầu của một giây, khi vũ trụ rất nóng và đậm đặc đến nỗi các hạt vật lý không thể tồn tại. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết ngày nay về “trạng thái chân không – vacuum state”, hay chân không lượng tử, thì đó không phải là một khoảng không trống rỗng đơn giản.
Sáng tạo vũ trụ từ chân không lượng tử – Lý thuyết trường lượng tử và sơ đồ Feynman
Cơ học lượng tử cho rằng một trạng thái chân không chứa các sóng điện từ thoáng qua và các hạt bật ra và tồn tại. Trong chân không lượng tử ở thời điểm khởi đầu đầu của vũ trụ, thời gian, không gian, các định luật vật lý và các hạt đều tồn tại. Tuy nhiên, các hạt không tồn tại như các thực thể vật lý bởi vì ở nhiệt độ cao như vậy, ngay khi chúng xuất hiện, chúng đã trở lại thành năng lượng – chúng là các hạt “ảo”.
Do sự vắng mặt rõ ràng của các hạt vật lý, dường như ở đó không có gì, nhưng trong thực tế, ở đó có mọi thứ cần thiết để tạo ra vũ trụ tồn tại. Khi vũ trụ giãn nở và nguội đi, các hạt xuất hiện và giữ nguyên trạng thái; cuối cùng, các ngôi sao và thiên hà hình thành.
Xem xét một cách kỹ càng, Kinh Thánh (Bible) thực sự cho chúng ta biết vũ trụ đã hình thành như thế nào. Trong dòng đầu tiên, nó nói rằng vũ trụ đến từ “vật chất hư vô” (nothing physical). Từ được sử dụng trong tiếng Do Thái là “bara”, có nghĩa là sáng tạo từ hư vô (ex nihilo creatio). Trong Kinh thánh, vật chất hư vô có nghĩa là không có gì – không có thời gian, không có không gian, không có các lực tự nhiên, không có các hạt cơ bản. Theo Sáng thế ký (Sách Sáng thế – Genesis), khởi đầu, Thiên Chúa tạo ra từ vật chất hư vô.
Cái hư vô thường được đề cập trong khoa học được ám chỉ trong Sáng thế ký 1:2: “Hiện tại, trái đất trống rỗng một cách đáng kinh ngạc [tohu và vohu], và bóng tối ở trên mặt sâu thẳm”. “Tohu và vohu” ở đây được định nghĩa rất giống với chân không lượng tử, trạng thái mà ở đó vật chất ban đầu của vũ trụ đã tồn tại nhưng không có sức mạnh hoặc không ở dạng hữu hình (như các hạt ảo trong khoa học) và ở trong trạng thái hỗn độn. Nhưng làm thế nào vũ trụ phát triển theo Sáng thế ký, và tại sao phương pháp khoa học cho phép chúng ta hiểu mọi thứ trừ sự khởi đầu ?
Sáng thế ký giải thích sự sáng tạo?
Khi đọc Sáng thế ký, chúng ta cần nhận ra hai điều. Một là toàn bộ chương đầu tiên của Sáng thế ký, mô tả sự sáng tạo ra thế giới, được thuật lại không phải bởi Thiên Chúa dưới tên Yahweh, mà bởi Thiên Chúa dưới cái tên Elokim, có nghĩa là “Chủ nhân của tất cả các lực lượng – Master of all the forces”. Điều này bởi vì từ gốc là “el”, có nghĩa là sức mạnh. Phần thứ hai của tên, hem/him, biểu thị “họ/số nhiều”, ở đây có nghĩa là tất cả các sức mạnh khác. Vì vậy, Elokim có nghĩa là “quyền lực trên tất cả các quyền lực”.
Nói cách khác, không chỉ Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa hay Sáng thế chủ, như Sáng thế ký nói rõ, mà Ngài còn là chủ nhân của tất cả các lực lượng của tự nhiên trong vũ trụ. Vì vậy, Sáng thế ký đang nói với chúng ta rằng Thiên Chúa chọn hoàn thành toàn bộ sự sáng tạo bằng cách hành động trong tự nhiên. Trong Kinh Thánh, Ngài đã tạo ra tự nhiên ngay từ đầu, và Ngài có thể đã chọn tạo ra vũ trụ theo cách có vẻ kỳ diệu đối với chúng ta, nhưng thay vào đó, Ngài đã sáng thế theo các quy luật tự nhiên.
Sáng thế ký cho chúng ta biết Thiên Chúa là chủ nhân của tất cả các lực lượng và tạo ra vũ trụ.
Điểm thứ hai chúng ta cần nắm bắt là hầu hết các hành vi sáng tạo trong Sáng Thế ký là những gì chúng ta sẽ gọi là “tạo ra – making”, nghĩa là lấy thứ gì đó và biến nó thành thứ khác. Ví dụ, mặt trời đã được tạo ra từ hydro và heli; theo cách rất thông thường, chúng ta sẽ lấy gỗ, đinh và làm một cái ghế. Điều này có nghĩa là phần lớn các hành vi trong Sáng Thế ký liên quan đến việc lấy thứ gì đó, tạo ra thứ khác và thực hiện điều này theo quy luật tự nhiên.
Đây chính xác là những gì khoa học hướng tới: quan sát cách một thứ gì đó thay đổi và giải thích sự thay đổi bằng một quy luật tự nhiên. Vì vậy, đối với tất cả những hành vi đó, khoa học sẽ có một lời giải thích hoàn toàn “tự nhiên”. Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa đã chọn ẩn mình trong tự nhiên và làm cho tất cả những hành vi này diễn ra một cách tự nhiên.
Chỉ có ba trường hợp ngoại lệ, khi Thiên Chúa làm việc trong tự nhiên nhưng bắt đầu không phải từ một thứ đã tồn tại mà từ hư vô. Chúng được mô tả bởi từ “bara”. Một trong những sự kiện này, như chúng ta đã thấy, liên quan đến sự khởi đầu của vũ trụ, hai sự kiện còn lại là sự xuất hiện của sự sống.
Sự kiện vũ trụ xuất hiện từ một thứ-không-có-gì (something-from-nothing) ở thời điểm rất sớm – thời điểm bắt đầu, Thiên Chúa đã tạo ra từ hư vô. Và sự kiện này không thể được hiểu theo phương pháp khoa học bởi vì theo định nghĩa, nó không liên quan đến bất cứ điều gì về vật chất.
Nói tóm lại, khoa học và Kinh thánh đồng ý rằng vũ trụ xuất hiện thông qua các phương pháp tự nhiên, như: các lực tự nhiên tác động lên các hạt theo thời gian, hình thành tất cả các cấu trúc chúng ta thấy, bao gồm cả mặt trời và hành tinh của chúng ta. Tuy nhiên, Kinh thánh khẳng định rằng, khoảnh khắc đầu tiên – khi thời gian, không gian, các lực và các hạt xuất hiện – là không thể giải thích được bằng phương pháp khoa học. Đó là một hành động từ hư vô. Cho đến nay, khoa học không có lời giải thích cho sự khởi đầu này cũng như lý do tại sao các lực và hạt cơ bản là như vậy.
Sáng tạo là lực của tự nhiên tác động lên các hạt theo thời gian
Giải mã các mốc thời gian sáng tạo trong Sáng thế ký
Hầu hết những người theo đạo Do Thái và Kitô giáo đều biết câu chuyện Thiên Chúa tạo ra vũ trụ trong 7 ngày sáng tạo, được đề cập trong Chương đầu tiên của Sáng thế ký.
Ngày 1: Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng và phân rẽ khỏi bóng tối.
Ngày 2: Thiên Chúa phân rẽ nước bên trên (mưa) với nước bên dưới (biển).
Ngày 3: Thiên Chúa phân rẽ nước bên dưới (biển) ra khỏi đất khô.
Ngày 4: Thiên Chúa cho cư ngụ trong bầu trời với mặt trời, mặt trăng và tinh tú.
Ngày 5: Thiên Chúa cho cư ngụ trong vòm trời đầy chim chóc và trong đại dương nhung nhúc cá biển.
Ngày 6: Thiên Chúa cho cư ngụ trên mặt đất các thú vật và loài người.
Ngày 7: Thiên Chúa ăn mừng; Ngài chúc lành cho ngày này và nghỉ ngơi.
Daniel Friedmann phát hiện sự giải thích về sự sáng tạo của Thiên Chúa đối với vũ trụ được đề cập và bàn luận rất nhiều trong các cuốn sách về Kabbalah (cây sự sống), phần vô cùng quan trọng của Ngũ thư (Torah) – 5 cuốn sách đầu tiên của kinh điển Tanakh của Do Thái giáo.
Thay vì nhìn nhận vũ trụ và trái đất được tạo ra hơn 7.000 năm trước như nhiều người Do Thái giáo và Kitô giáo nhìn nhận một cách đơn giản về thời điểm sáng tạo của Thiên Chúa, những giáo sĩ nghiên cứu Kabbalah (Kabbalist) của Do Thái giáo phát hiện ra khái niệm các chu kỳ vũ trụ (cosmic cycles) sau khi diễn giải các kinh thánh. Họ cho rằng mỗi một ngày trong 7 ngày sáng thế của Thiên Chúa là một chu kỳ vũ trụ.
Isaac ben Samuel, một người Do thái giáo sinh ra từ thành phố Arce (Akko), phía bắc Israel, sống ở nửa cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14, có lòng tin vào Thiên chúa và có khả năng giải mã sự bí ẩn của kinh thánh. Ông thường ghi chép lại những gì ông nhìn thấy trong mỗi giấc mơ hoặc những điều ông được khải thị mỗi ngày. Trong một tài liệu giải thích về Kabbalah, Isaac nói rằng mỗi ngày của Chúa tương đương với 1.000 năm nơi nhân loại. ( “For a thousand year in your sight are one day” (Psalms 90:4)
Sau nhiều năm nghiên cứu và tìm hiểu về các kinh điển Do Thái giáo, Daniel Friedmann đi đến phát hiện và diễn giải như sau:
_ 1 Ngày Sáng tạo của Thiên Chúa tương ứng với 1 chu kỳ của vũ trụ, tương ứng với 7.000 Năm của Thiên Chúa
_ 1 Năm của Thiên Chúa tương đương với 365,25 Ngày của Thiên Chúa
_ 1 Ngày của Thiên Chúa tương đương 1.000 năm nơi nhân loại
_ 365,25 Ngày của Thiên Chúa hay 1 Năm của Thiên Chúa = 365.250 năm của nhân loại
_ Vì vậy, một Ngày sáng tạo hay 1 chu kỳ vũ trụ tương ứng 2.556.750.000 năm của nhân loại (2,556 tỷ năm).
Cả Isaac ben Samuel và Daniel Friedmann đều cho rằng những Ngày sáng tạo của Chúa dừng lại vào ngày thứ 6 trong 7 ngày sáng tạo được nói đến trong Sáng thế ký, bởi vì trước khi ngày thứ 6 kết thúc, Adam và Eve đã phạm tội ăn trái cấm và bị trục xuất khỏi Vườn Địa Đàng. Như vậy, nếu tính rằng vũ trụ đã trải qua 6 chu kỳ vũ trụ thì tuổi thọ của vũ trụ tương đương 6*2,556 = 15,336 tỷ năm. Tuổi vũ trụ này khá khác biệt với tuổi thọ vũ trụ mà các nhà khoa học hiện nay phát hiện ra theo thuyết Big Bang, khoảng 13,65 đến 13,89 tỷ năm về trước.
Friedmann phát hiện cuốn kinh thánh Do Thái giáo có tên là Tractate Sanhedrin đã mô tả rất chi tiết về Ngày sáng tạo thứ 6:
“Ngày có 12 giờ [ngụ ý đến thời gian ban ngày từ 6AM đến 6PM].
Trong giờ đầu [6AM -7AM], bùn đất của anh ta [Adam] được thu thập;
Trong giờ thứ hai, nó [bùn đất] được nhào nặn thành một khối không có hình thù.
Trong giờ thứ ba, tay chân [cơ thể] của anh ta [Adam] được nặn;
Trong giờ thứ tư, một linh hồn được truyền vào anh ta [Adam];
Trong giờ thứ năm, anh ta lớn lên và đứng trên đôi chân của mình;
Trong giờ thứ sáu, anh đặt tên cho chúng [các động vật];
Trong giờ thứ bảy, Eve trở thành người bạn đời của anh;
Trong giờ thứ tám, họ lên giường với 2 người và xuống giường với 4 người [Cain và Abel đã được ‘sinh ra”];
Trong giờ thứ chín, anh ta được lệnh là không thể ăn trái cấm,
Trong giờ thứ mười, anh ta phạm tội;
Trong giờ thứ mười một, anh bị xét xử,
Trong giờ thứ mười hai [5PM-6PM], anh ta bị trục xuất [khỏi Eden] và rời đi…”
Theo Daniel Friedmann, “đoạn văn này là công cụ cho việc thiết lập định thời của mọi điều liên quan đến Adam và con người, nhưng nó cũng cung cấp các thông tin quan trọng về thực vật. Khi chúng ta kết hợp Tractate Sanhedrin với các tài liệu khác, rõ ràng là cây cối bắt đầu xuất hiện sau khi Adam được hoàn thiện vào đầu giờ thứ 6 (11AM) và tất cả xuất hiện tại thời điểm Adam được nhắc nhở không được ăn trái cấm, tại cuối giờ thứ chín (3PM).”
Sau hàng tháng tìm kiếm và đọc tài liệu, Daniel Friedmann đã có thể xác định chính xác các mốc thời gian trong các Ngày sáng tạo được mô tả trong Sáng thế ký.
Tu luyện – Nền khoa học bị lãng quên
Tuổi thọ của vũ trụ: Kinh thánh Do Thái giáo nói rằng một Ngày sáng tạo của Thiên Chúa bắt đầu từ buổi tối, lúc 6 giờ chiều và kết thúc vào 6 giờ chiều ngày hôm sau và Thiên Chúa thường “làm việc” vào ban ngày, đặc biệt là việc sáng thế bắt đầu vào lúc 6 giờ sáng của ngày thứ nhất hay là 12 giờ sau khi ngày thứ nhất bắt đầu.
Nghĩa là, thời gian sáng thế cách đây một khoảng thời gian = 6 ngày * 24 giờ – 12 giờ -3 giờ = 129 giờ, tương đương 5,375 ngày sáng tạo, tương ứng với 13,743 tỷ năm.
Hay nói một cách khác, tuổi thọ của vũ trụ theo Sáng thế ký là 13,743 tỷ năm. Điều này là tương hợp với phát hiện của khoa học rằng tuổi thọ của vũ trụ khoảng 13,65 đến 13,89 tỷ năm về trước.
Thời điểm tạo ra mặt trời: Mặt trời được tạo ra vào thời điểm cuối cùng của ngày sáng tạo thứ tư, vì thế nó có tuổi thọ khoảng 4,79 tỷ năm. Nó tương hợp với nhận thức của khoa học hiện tại về tuổi thọ của mặt trời từ 4,57 đến 4,8 tỷ năm.
Loài người xuất hiện: Theo đoạn văn được trích từ Tractate Sanhedrin, loài người được Thiên Chúa tạo ra từ 10AM đến 11AM của ngày thứ 6, có nghĩa là nó cách thời điểm chấm dứt thời gian sáng tạo 4 giờ, tương ứng với việc loài người xuất hiện cách đây khoảng 426 triệu năm. Điều này tương hợp với các phát hiện về các di tích văn minh tiền sử, chứng minh rằng con người đã xuất hiện hàng trăm triệu năm về trước...
Tuy những điều mà Friedmann đã phát hiện ra cần phải có kiểm chứng, nhưng nó rất thú vị. Nó cho thấy rằng khi chúng ta tập trung vào những gì có thể quan sát và đo lường về vũ trụ, Kinh Thánh và khoa học là rất đồng thuận.
Thuyết vô thần đang khiến cho nhân loại từng bước đi đến diệt vong, vậy mà đến nay vẫn còn có người xem đó là chân lý. Bài viết này sẽ đứng từ góc độ của khoa học để chứng minh rằng: Thuyết vô thần là mê tín lớn nhất.
Thuyết vô thần chính là mê tín lớn nhất.
Khoa học có nghiên cứu thêm một vạn năm nữa
cũng không thể nào tự tạo ra sinh mệnh.
Thuyết vô thần là một giả thuyết mãi mãi không thể được chứng minh
Khoa học chỉ có thể chứng minh sự tồn tại của một vật nào đó chứ không thể chứng minh vật đó không tồn tại. Người theo thuyết vô thần hay nói: “Thần ở nơi nào? Tôi không nhìn thấy, thế nên hẳn là không có”. Bạn không nhìn thấy, không có nghĩa là người khác cũng không thấy, cũng không thể chứng minh thần không tồn tại. Nói một cách chính xác, mặc dù cả thế giới đều không nhìn thấy thần, cũng không có cách nào chứng minh thần không tồn tại. Thuyết vô thần là một giả thuyết mãi mãi không thể được chứng minh. Thực ra, số người nhìn thấy thần và ma trên thế giới này rất nhiều, quá khứ, hiện tại đều có, chỉ là người theo thuyết vô thần không tin mà thôi.
Có người nói rằng, “thuyết vô thần” nhất định phải chứng minh được rằng toàn vũ trụ này không có sinh mệnh nào cao hơn con người, thế nhưng lại không chứng minh được. Vì sao vậy?
1. “Thuyết vô thần” cho rằng vũ trụ là vô biên. Họ thường lập luận rằng nếu như có biên giới, vậy bên ngoài kia là gì? Ở nơi đó có sinh mệnh cao cấp hơn con người không? Thế nên không thể có giới hạn được. Nhưng nếu đã là vô biên, vậy phải làm sao để có thể tìm thấy được hết toàn bộ vũ trụ và biết rằng trong vũ trụ không có “thần”? Đây chính là một câu hỏi về chiều rộng.
2. Thuận theo sự phát triển của khoa học, những phương pháp nghiên cứu cũng ngày càng tiến bộ. Vậy những nơi trước đây từng khám phá liệu có cần dùng phương pháp mới để nghiên cứu lần nữa không? Điều này chắc chắn là cần thiết. Hơn nữa bản thân của việc nghiên cứu lại bằng kỹ thuật mới cũng có giới hạn. Đây chính là vấn đề về độ sâu của việc nghiên cứu.
3. Nếu như có tồn tại sinh mệnh sống cao cấp hơn con người, thì với kỹ thuật của mình, họ sẽ không để chúng ta phát hiện ra, họ có thể nhìn thấy con người, nhưng con người không thể thấy họ. Đây chính là vấn đề về tính khả năng của một sinh vật cấp thấp tìm hiểu về sinh vật cấp cao.
4. Đối tượng nghiên cứu khoa học cần chuẩn bị sẵn một điều chính là tính trùng lặp. Nơi bắt nguồn của vũ trụ, sinh mệnh, nhân loại là thứ đã hoàn thành rồi, không thể lặp lại. Đây chính là vấn đề về tính giới hạn của bản thân khoa học.
Có thể thấy, nếu xét về độ rộng, độ sâu, tính khả năng và tính giới hạn của khoa học trong việc khám phá vũ trụ mà nói, “thuyết vô thần” không chỉ không có tính khoa học, mà còn không khả thi. Ngay người đứng đầu trong học thuyết Darwin là Thomas Henry Huxley cũng thừa nhận: “Đứng trên lập trường triết học thuần túy mà nói, thuyết vô thần là không có cơ sở”. Xuất phát từ thuyết vô thần, nhưng nghiên cứu khoa học lại trở về với thuyết hữu thần
1. Bí ẩn của Mặt trăng
Mặt trăng không quá gần, không quá xa, không quá to, không quá nhỏ,
vừa đủ để đem lại lợi ích cho con người và vạn vật trên Trái Đất.
Nếu nhìn từ Trái đất, Mặt trăng và Mặt trời đều lớn như nhau, điều này không phải rất lạ sao? Đường kính của Mặt Trời gấp 400 lần Mặt trăng, khoảng cách của chúng đến Trái đất cũng khoảng 400 lần. Sao lại trùng hợp đến vậy? Mặt Trăng vừa đủ to để tạo thành nhật thực, vừa đủ nhỏ để người ta nhìn thấy quầng Mặt trời, thiên văn học không thể nào lý giải hiện tượng này, đây đúng là một sự trùng hợp vô cùng kỳ lạ. Theo tỉ lệ khảo sát, xác suất trùng hợp này là 1/10.000. Sức mạnh nào đã đưa Mặt trăng vào một quỹ đạo kỳ diệu đến thế?
Quỹ tích của các vệ tinh đều là hình trứng, quỹ tích của Mặt trăng lại gần như hình tròn. Vậy sức mạnh nào đã khiến Mặt trăng tạo thành quỹ tích gần giống hình tròn? Theo khảo sát, tỉ lệ này cũng là 1/10.000.
Vì chu kỳ của Mặt trăng và trình tự xoay tròn chặt chẽ, Mặt trăng mà chúng ta nhìn thấy luôn có một mặt, là sức mạnh nào đã khiến mặt trăng luôn đối mặt với Trái đất? Và tỉ lệ này vẫn là 1/10.000.
Ba tỉ lệ đặc trưng của Mặt Trăng là: 1/10.000*1/10.000*1/10.000= 1/10^12. Điều này cũng giống như việc mua 12 tấm vé số, lần đầu tiên mua liền trúng giải. Đây là do sức mạnh của thần, không phải thứ mà sức người có thể làm được, tỉ lệ 1/10^12 là xác suất âm, chỉ có thần mới làm được.
Mặt Trăng nhìn thì thấy không lớn không nhỏ, có thể đem đến ánh sáng vừa phải cho đêm đen, thủy triều lên xuống cũng có ích cho Trái đất. Nếu như Mặt trăng gần hơn một chút, thì sẽ lớn hơn, đêm tối cũng sáng hơn, khiến cho các sinh vật Trên trái đất thay đổi quy tắc ngày đi đêm ngủ, dẫn đến biến dị hành vi; cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi rất lớn cho thủy triều, gây thiên tai. Mặt trăng xa Trái đất hơn một chút thì cũng nhỏ lại, cũng sẽ tối hơn, không thể có được tác dụng chiếu sáng trong đêm tối. Có thể còn có những ích lợi khác của Mặt trăng mà chúng ta chưa tìm ra. Vì vậy quỹ đạo của Mặt trăng là một sự tính toán khoa học chặt chẽ, do một sinh mệnh cao cấp hơn tính toán ra và đặt nó ở vị trí đó, tuyệt đối không phải do vũ trụ nổ tung mà tạo thành.
2. Bí ẩn của Trái Đất
Nếu Trái Đất cách xa hoặc gần Mặt Trời thêm 1/1000 lần thì sinh mệnh trên Trái Đất sẽ bị hủy diệt.
Nhìn từ không gian vũ trụ, Trái Đất là một hành tinh màu xanh lam, rất đẹp, bề mặt đa phần là nước, nhiệt độ thích hợp cho tế bào sinh tồn. Trong dải Ngân Hà có 200 tỷ ngôi sao, nhưng chỉ Trái Đất là tinh cầu duy nhất có tế bào, tỉ lệ là 1/200 tỷ, nhỏ đến vậy, thật kinh thiên động địa. Các yếu tố tự nhiên của Trái Đất như nhiệt độ, độ ẩm, không khí,…, đều là chuẩn bị cho sự sống của con người, cũng là duy nhất trong 200 tỷ ngôi sao.
Khoảng cách từ Mặt Trời đến Trái Đất là 1,5 x 10^8km, chỉ có ở vị trí này, Trái Đất mới nhận được đủ ánh sáng và độ ấm, không bị thiêu rụi, và tốc độ xoay 11 km/giây mới không bị rời khỏi quỹ đạo. Khoảng cách này đã được tính toán tỉ mỉ và kiểm tra nhiều lần, tốc độ này cũng được tính toán kỹ lưỡng mới có được. Ai có thể đủ bản lĩnh để làm nên những điều này? Chỉ có thể là Thần!
Chỉ cần toàn bộ Trái Đất nóng lên 1 độ cũng có thể dẫn đến hủy diệt. Nếu khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời ngắn lại 1/1000, tương đương khoảng 150 ngàn km, nhiệt độ và ánh sáng sẽ tăng, Trái Đất sẽ bị thiêu rụi, độ ấm của Trái Đất không ngừng tăng cao sẽ gây nguy hiểm cho hệ sinh thái. Nếu Trái Đất cách xa Mặt Trời thêm 1/1000, nhiệt độ và ánh sáng sẽ giảm, Trái Đất liên tục lạnh đi, địa cầu đóng băng, cũng tạo thành nguy cơ cho hệ sinh thái của Trái Đất. Tóm lại, sai số 1/1000 này khiến con người sinh sống rất khó khăn, có thể dẫn đến hủy diệt, rất khó tạo nên nền văn minh huy hoàng như hiện tại.
Mọi người đều biết, Trái Đất xoay quanh Mặt Trời, Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, điều này cần có một vận tốc và góc độ vô cùng chuẩn xác, nếu như nhanh hơn một chút, Trái Đất và Mặt Trăng sẽ bay đi mất, còn nếu chậm một chút, Mặt Trăng sẽ từ từ rớt xuống Trái Đất, Trái Đất sẽ rớt xuống Mặt Trời. Vận tốc này từ đâu mà ra? Tại sao nó lại chuẩn xác như vậy? Sức mạnh nào đã khiến Trái Đất và Mặt Trăng có tốc độ quay và phương hướng thích hợp đến thế? Chỉ có thể là Thần!
3. Phản ứng nhiệt hạch của Mặt Trời vô cùng kỳ diệu
Trên Mặt Trời mỗi một phút giây đều xảy ra phản ứng nhiệt hạch, phản ứng nhiệt hạch này được khống chế rất ổn định, nếu như có thể nắm bắt được kỹ thuật này, con người không cần lo về nguồn năng lượng nữa, đến cả dầu mỏ, khí thiên nhiên, than đá, năng lượng Mặt Trời cũng không dùng đến. Là sinh mệnh nào đã khiến Mặt Trời có được phản ứng nhiệt hạch tuyệt vời đến vậy?
Khi con người tự hào vì có thể sử dụng phản ứng hạt nhân, sao không nghĩ đến phản ứng nhiệt hạch của Mặt Trời cao siêu hơn chúng ta đến cả triệu lần? Khi chúng ta vui mừng vì phát minh ra kính viễn vọng và máy chụp hình, sao không nghĩ đến đôi mắt của động vật chính là kính viễn vọng và máy chụp hình tinh vi hơn cả triệu lần, ai đã thiết kế và tạo ra chúng? Chẳng lẽ chỉ do một vụ nổ lộn xộn của vũ trụ sao?
Thước đo kính viễn vọng trong kính thiên văn là dựa theo nguyên lý đôi mắt của côn trùng tạo thành, khoa học của con người có phát triển hơn nữa, cũng không thể tạo ra đôi mắt của động vật. Nói chính xác hơn là, có sinh mệnh cao cấp khác, trước chúng ta vô số năm, đã tạo nên những sản phẩm cao siêu gấp nhiều lần so với của chúng ta ngày nay, và dẫn dắt cho khoa học. Không có kỹ thuật sinh học, khoa học sẽ dậm chân tại chỗ.
Đây là những kiến thức thông thường, các nhà khoa học đều biết. Đó là lý do vì sao trong các nhà khoa học, người theo thuyết hữu thần lại nhiều như vậy. Khoa học là từ thuyết vô thần mà ra, nhưng thực tế lại đang từng bước quay về với thuyết hữu thần.
Đa số các nhà khoa học đều là những người theo thuyết hữu thần
Theo cách nghĩ thông thường thì các nhà khoa học là những người có kiến thức sâu rộng, đáng lẽ phải là những người theo thuyết vô thần, nhưng thực tế lại trái ngược hoàn toàn. Liên Hiệp Quốc đã từng khảo sát 300 nhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới trong 300 năm qua, kết quả cho thấy có khoảng 90% các nhà khoa học tin rằng thần linh là có tồn tại.
Trong đó bao gồm hầu hết các nhà khoa học có ảnh hưởng lớn, có những cống hiến vô cùng vĩ đại cho sự phát triển của khoa học như: Cha đẻ của vật lý học – nhà khoa học nổi tiếng Isaac Newton, người phát hiện ra thuyết tương đối – Albert Einstein, cha đẻ của hệ thống điện báo – Samuel Morse, cha đẻ của tên lửa – Wernher Von Braun, nhà khoa học nữ vĩ đại – Marie Curie, người sáng lập giải Nobel – nhà khoa học Alfred Nobel, người đầu tiên nhận giải Nobel – Wilhelm Conrad Roentgen, người phát minh điện thoại vô tuyến – Guglielmo Marconi, người đầu tiên phát minh vắc-xin phòng chống bệnh đậu mùa – bác sĩ Edward Jenner, người phát minh ra máy bay đầu tiên – anh em nhà Wright, người sáng lập khoa học thực nghiệm hiện đại – Francis Bacon, người sáng lập ra thuyết lượng tử – Max Planck,…
Trong phòng thí nghiệm của mình, nhà phát minh vĩ đại người Mỹ Thomas Edison cũng có một tấm bia đá, trên đó khắc: “Tôi tin rằng có sự tồn tại của một vị thần tối thượng, toàn năng”.
Von Braun, người đứng đầu Viện nghiên cứu không gian Hoa Kỳ được biết đến là “Cha đẻ của ngành tên lửa vũ trụ của Hoa Kỳ”. Ông tin rằng thần chính là người đã tạo ra vạn vật, và ông cũng tin rằng linh hồn là bất diệt.
Các nhà khoa học phát hiện ra thế giới xung quanh chúng ta, toàn bộ đều chính xác và có trật tự. Toàn bộ các hằng số tự nhiên như điện tử, điện tích, khối lượng của proton, lực tương tác của các hằng số ngẫu hợp,… nếu chỉ cần một chút không giống nhau, nguyên tử sẽ không thể nào tập hợp lại được, hằng tinh sẽ không thể nào bốc cháy; hành tinh, địa cầu, sinh mệnh không cách nào tồn tại được.
Vì vậy John Polkinghorne, nhà vật lý học nổi tiếng của Đại học Cambridge có nói rằng: “Nếu bạn nhận ra rằng quy luật của giới tự nhiên kết hợp với nhau một cách hài hòa tinh vi là một điều vô cùng kỳ diệu, từ đó tạo ra vũ trụ mà chúng ta đang nhìn thấy, thì bạn sẽ có cách nghĩ như thế này: Vũ trụ này không phải tồn tại một cách ngẫu nhiên, mà có sự sắp xếp”.
Kể từ khi khoa học phân loại phát triển cho đến nay, một số thành phần tri thức nói quá về khả năng của con người, tự cao tự đại, tự cho mình là siêu phàm, tuy nhiên những người sáng lập ra thuyết vô thần khi đối mặt với vũ trụ cũng chỉ làm cho mọi chuyện trở nên tệ hơn.
Nietzsche, người sáng lập thuyết vô thần thừa nhận rằng “kiếp luân hồi vĩnh cữu là công thức cao nhất về sự khẳng định của cuộc sống”. Tuy nhiên Marx, Engels lại né tránh, từ chối trả lời về nguồn gốc vũ trụ, vật chất và sự vân động, nói rằng: “Vật chất tồn tại một cách khách quan”, “Thuộc tính của vật chất chính là sự vận động”, nhiều lần sử dụng các mánh khóe giống nhau để che đậy sự thật. Không thể tự bào chữa, và cũng không thể bác bỏ lý luận về sự tạo hóa là do thần linh.
Đa số các nhà khoa học trứ danh thế giới đều tin vào Thần và Thuyết Sáng thế.
Trí tuệ của Einstein
Thiên tài vật lý Einstein từng nói: “Tôi tin rằng Thượng Đế thực sự tồn tại, Ông dựa trên sự sắp xếp ngay ngắn và sự hòa hợp để biểu thị bản thân”. Einstein tin rằng vũ trụ không phải ngẫu nhiên hình thành, mà do có luật nhân quả.
Một phóng viên đã từng phỏng vấn Einstein và mời ông bày tỏ quan điểm về câu hỏi “thần linh có thực sự tồn tại không?”. Einstein lúc đó vừa tiễn một người bạn, ông nhìn vào bánh kẹo, ly cà phê trên bàn và nói với phóng viên: “Anh phóng viên, anh có biết ai là người đã sắp xếp ly cà phê và các thứ khác theo trật tự như vậy không?”. Anh phóng viên trả lời: “Tất nhiên là ông rồi”.
Einstein tiếp lời: “Ly cà phê và các thứ khác đều cần sự sắp xếp của một người nào đó. Vậy hãy nghĩ: Vũ trụ có bao nhiêu hành tinh, mỗi hành tinh dựa theo quỹ đạo vận hành khác nhau, sự sắp xếp này chẳng phải là cần một sinh mệnh cao cấp hơn thực hiện!”. Ông còn nói: “Có thể anh sẽ nói: ‘Tôi chưa từng thấy, cũng chưa từng nghe về thần linh, vậy tôi phải tin vào sự tồn tại của thần linh bằng cách nào?’ Đúng vậy, anh được ban cho 5 giác quan: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, cảm giác, nhưng 5 giác quan này còn rất hạn chế, ví dụ âm thanh, chỉ sóng âm từ 20dB tới 20.000dB thì con người mới có thể nghe được…”. Thị giác cũng như vậy, con người chỉ có thể nhìn thấy sự vật khi có ánh sáng, mà ánh sáng chỉ là một phần rất nhỏ trong bộ sóng ngắn điện từ.
Einstein từng nói: “Có một trí tuệ cao cấp vô hạn, vượt qua hết thảy những tư duy yếu đuối của chúng ta, [con người] có thể cảm nhận được đến biểu hiện của trí huệ này, ca ngợi trí huệ này và đó là khởi nguyên cho sự hình thành tín ngưỡng tôn giáo”.
Einstein còn nói: “Nếu sau này có lý luận nào đó có thể thay thế khoa học, vậy đó nhất định là Phật Giáo, bởi vì Phật Giáo đã quá hoàn mỹ, đã đạt đến cảnh giới chí thiện”.
Lòng thành kính của nhà bác học Isaac Newton đối với thần
Các giáo trình khoa học thường nói nhà khoa học Isaac Newton sau này mới đi vào con đường tôn giáo. Thật ra, Newton ngay từ nhỏ đã là một tín đồ Cơ Đốc giáo thành tín. Khi lên đại học, ông toàn dùng tiền tiêu vặt của mình để mua Kinh Thánh tặng cho người khác. Nhờ những thành tựu nổi bật trong khoa học, Newton đã được ca ngợi như “nhà khoa học kiệt xuất nhất lịch sử” hay “cha đẻ của vật lý học cận đại”.
Phần lớn các tiểu sử về ông đều nói đến các thành tựu khoa học, nhưng lại không đề cập đến tín ngưỡng của ông. Tuy nhiên, bản thảo của Newton đã cho thấy tín ngưỡng có một ý nghĩa quan trọng đối với cuộc đời làm khoa học của ông. Newton từ lúc bắt đầu nghiên cứu về những bí ẩn của tự nhiên đã phát hiện rằng tự nhiên rất khó hiểu, để rồi bước vào con đường tôn giáo, và chứng minh với mọi người rằng sự hình thành vạn sự vạn vật trong vũ trụ là rất kỳ diệu, vĩ đại và đều do thần tạo nên.
>>> Isaac Newton: Cả vũ trụ này đều do Thần tạo nên và không có gì là ngẫu nhiên
Newton đã dùng phần lớn cuộc đời để tìm tòi về thế giới tinh thần, ông chỉ xem khoa học là việc làm lúc rảnh rỗi. Newton đã dùng sinh lực cả đời của mình để nghiên cứu những bí mật của vũ trụ. Đối với “chủ nghĩa vô Thần luận” ông hoàn toàn không hề cho là đúng, ông chỉ ra: “Khi tôi quan sát hệ Mặt trời, nhìn thấy khoảng cách từ Trái đất đến Mặt trời vừa khéo khiến cho Trái đất có được ánh sáng và nhiệt độ thích hợp, đây tuyệt đối không phải là hiện tượng ngẫu nhiên!”
Sau khi nghiên cứu khảo sát về sự kỳ diệu của kết cấu vũ trụ một cách kỹ lưỡng, Newton càng cảm nhận sâu sắc hơn sự vĩ đại của Đấng đã sáng tạo nên vũ trụ này. Đối với ông, nó sâu xa huyền diệu không cách nào đo lường cho được. Ông còn nói rằng: “Tôi bằng lòng dựa vào nghiên cứu về khoa học tự nhiên để chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế, để có thể tỏ lòng thành kính nhiều hơn đối với thần”. Trong những năm cuối đời ông đã viết hơn 1,5 triệu tác phẩm thần học để chứng minh sự tồn tại của thần linh.
Nói về kết cấu và vận hành của thiên thể, Newton bày tỏ một cách nghiêm chỉnh: “Từ trật tự kỳ diệu của các thiên hệ, chúng ta không thể không thừa nhận những điều này chắc chắn được tạo nên bởi những sinh mệnh cao cấp toàn trí toàn năng. Tất cả vạn sự vạn vật dù là vô cơ hay hữu cơ trong vũ trụ đều là từ trí huệ toàn năng của những vị Chân Thần vĩnh sinh tạo nên. Người bao quát hết thảy, đại trí đại huệ; Người hiện hữu trong đại thiên thế giới sắp xếp có trật tự, bao la vô tận, tất cả đều theo chỉ ý của Ngài mà sáng tạo vạn vật, vận hành vạn vật, rồi đem sinh mệnh, hơi thở, vạn vật cấp cho con người; cuộc sống, động tác, tồn lưu của chúng ta, đều thuộc về Người. Vạn vật trong vũ trụ, tất nhiên là có một vị Thần toàn năng đang điều khiển và khống chế hết thảy. Ở dùng kính viễn vọng để tìm đến nơi tận cùng, tôi đã nhìn thấy dấu vết của Thần”.
Newton có một người bạn là nhà thiên văn học nổi tiếng người Anh – Harley, nhưng ông ấy lại không tin mọi vật trong vũ trụ đều do thần tạo ra. Một lần, Newton tạo ra một mô hình Hệ Mặt Trời, chính giữa là một Mặt Trời được mạ vàng, bốn phía sắp sếp các hành tinh dựa vào quy luật thực sự của nó, có một cái trục cong, tất cả các hành tinh được di chuyển dựa theo quỹ đạo thật của nó một cách hài hòa nhất, cực kỳ đẹp mắt.
Một ngày, Harley đến thăm, nhìn thấy mô hình này nên đã chơi rất lâu với nó. Ông hết sức khâm phục rồi hỏi mô hình này là do ai làm. Newton trả lời rằng, mô hình này không do ai thiết kế và chế tạo hết, chỉ là do sự kết hợp ngẫu nhiên của các loại nguyên liệu khác nhau mà thành. Harley nói, bất luận thế nào cũng phải có người tạo ra nó, người đó chắc chắn là một thiên tài.
Lúc này, Newton vỗ vai Harley và nói: “Mô hình này tuy rất tinh xảo, nhưng nếu so với Hệ Mặt Trời thật sự thì nó chẳng là gì cả! Nếu anh nhất quyết cho rằng có ai đó chế tạo ra nó, vậy cái Hệ Mặt Trời tinh xảo hơn cái này gấp tỷ lần kia chẳng phải do trí tuệ của thần tạo ra sao?”. Harley lúc này mới tỉnh ngộ và tin rằng Thần Phật là có thật.
Newton trước lúc lâm chung đã nói với những người ngưỡng mộ trí tuệ và thành tựu khoa học vĩ đại của ông rằng: “Công việc của tôi đem so sánh với sự sáng tạo vĩ đại của Thần chỉ là một đứa trẻ đi nhặt sỏi và vỏ sò ở bãi biển. Chân lý tựa như biển cả, rộng lớn đến mức vượt ngoài khả năng của con người”.
Vỏ sò bé nhỏ trước đại dương. (Ảnh: internet)
Mối hiểm họa của thuyết vô thần
Ngày trước con người đa số đều tin vào thần Phật, chẳng thế mà người xưa thường nói “hành sự phải có lương tâm”, “trên đầu 3 tấc có thần linh”, “người đang làm, thần đang nhìn”. Người xưa luôn tin rằng con người không chỉ có kiếp này mà còn có kiếp sau, có thiên đàng, địa ngục; thiện ác hữu báo. Vì vậy thời ấy con người còn cung kính, còn hy vọng vào thần Phật nên không dám làm những chuyện quá xấu xa, xã hội còn ổn định, tốt đẹp.
Không có thần thánh, sẽ không có trừng phạt, con người sẽ trở nên thích gì làm nấy, chuyện gì cũng dám làm; không có thần thánh sẽ không có thiên đàng, con người sẽ không còn hy vọng và muốn lên đó; không có thần thánh, sẽ không còn thiện ác, con người làm chuyện xấu cũng không sợ có người biết; không có thần thánh; đạo đức nhân loại sẽ tự động suy thoái, cho tới khi tự mình diệt mình mới thôi.
Thần thánh, thiên đàng, địa ngục, luân hồi, báo ứng, những điều này nếu bị xóa bỏ thử hỏi đạo đức con người có thể không suy thoái không? Thuyết vô thần chính là bãi lầy khiến con người bị sa đọa. Một nhóm người sa đọa sẽ làm hại xã hội, khiến xã hội từng bước đi đến hủy diệt.
Sự sa đọa của nhân loại là bắt đầu từ chủ nghĩa tôn sùng kim tiền, mọi thứ đều dùng tiền để giải quyết, để đo lường. Đồng thời thuyết vô thần cũng đang mở ra cánh cửa địa ngục to lớn cho nhân loại. Nhìn đất nước Trung Quốc giờ đây, khúc trên không thẳng khúc dưới ắt cong; tình trạng lừa gạt tiền bạc xảy ra khắp nơi. Quan chức cấp cao trong một đêm có thể biển thủ hàng chục triệu hoặc trăm tỉ quốc khố thành của riêng.
Người dân bên dưới có thể làm ăn giả dối, thuốc giả, rượu giả, thức ăn giả, số liệu nhân khẩu giả, thi hành án giả,… khiến một nước lớn Trung Quốc biến thành điều giả dối của thế giới. Ngoài ra còn xuất hiện sữa bột có độc, dầu ăn pha tạp chất, thấy chết không cứu,…
Vì không thấy hy vọng, không biết có sự tồn tại của thần nên mới sa đọa như thế. Vậy nên thuyết vô thần là thứ mê tín lớn nhất. Nó khiến đạo đức của con người ngày càng bại hoại, mà đạo đức bại hoại còn đáng sợ và nguy hiểm hơn nghèo khổ gấp nhiều lần, sẽ khiến con người từng bước đi đến diệt vong.
Thần thánh xuất hiện ở mọi nơi
Có một câu chuyện trong cuộc chiến Trung Nhật thế này. Một người quân nhân trước khi vào chiến trường bỗng dưng gặp một bà lão đang ngồi ở góc đường than khóc. Anh liền tới hỏi thăm, bà lão nói mình là người bán lợn, mới bị một người dùng tiền xu giả lừa gạt. Người quân nhân này nghĩ: “Tôi phải lên tiền tuyến để đánh Nhật, sống chết chưa biết ra sao, tiền cũng không có là bao, thấy bà ấy tội nghiệp như thế, hay là đổi cho bà vậy”. Liền nói: “Tôi có một đồng tiền thật, đổi giúp bà vậy”.
Bà lão đổi tiền xong, rất vui mừng và đi mất. Người quân nhân lấy đồng tiền giả bỏ vào túi áo, đuổi theo đội ngũ chiến đấu. Cũng trong trận chiến ấy, có một viên đạn bắn vào ngực anh, ngay giữa đồng xu ấy nhưng không xuyên thủng, anh như từ cõi chết trở về. Có người cho rằng có lẽ một vị thần nào đó thấy anh khó khăn nên đã biến thành bà lão thử lòng anh, nhờ đó mà anh được cứu.
Sẽ có người nói đó chỉ là sự trùng hợp, nhưng tại sao lại trùng hợp đến vậy. Thiện ác hữu báo, cũng cho là trùng hợp! Trái Đất chúng ta dựa vào sự cần thiết về ánh sáng và nhiệt độ mà được đưa vào quỹ đạo, xuất hiện một chút lỗi nhỏ thôi, chúng ta không bị cóng chết cũng sẽ bị nóng chết, hoặc là bay mất hoặc rớt vào Mặt Trời, cũng lại nói là trùng hợp! Vạn sự vạn vật trên thế giới đều được sắp xếp trật tự để đáp ứng những điều cần thiết cho con người, vẫn nói là trùng hợp! Theo cách nói này, có lẽ khoa học không cần phải phát triển nữa, mọi việc đều có “sự trùng hợp” giải quyết rồi.
Chúng ta hãy thử chuyển sang một tư duy hợp tình hợp lý hơn mà nói: “Mọi việc đều có Đấng tối cao an bài, và vẫn đang trong tầm kiểm soát, bảo hộ”. Đấng tối cao này chúng ta gọi là “thần”. Thần hiện diện ở bất cứ nơi đâu, chỉ là mắt người không thể thấy, và đang bảo vệ thế giới này, đang bảo vệ những con người lương thiện.
Xem và nghe thêm "Khoa học đã tìm ra bằng chứng tồn tại của Đấng Sáng Thế" tại đây hoặc tại đây.
Bộ sách “Bí ẩn mãi mãi là bí ẩn” gồm 6 tập sẽ đưa bạn tới những câu chuyện kỳ bí của thế giới. Đây chính là bộ sách dành cho bạn, những người ưa phiêu lưu và khám phá, những người yêu thích và say mê khoa học…
Bộ sách "Bí Ẩn Mãi Mãi Là Bí Ẩn" gồm 6 tập, mang đến cho độc giả những câu chuyện kỳ bí và thú vị về những hiện tượng không thể giải thích được trong lịch sử và thế giới hiện đại. Đây là bộ sách dành cho những người yêu thích phiêu lưu và muốn khám phá những bí ẩn của thế giới.
Mỗi chương của bộ sách tập trung vào một chủ đề cụ thể, bắt đầu từ những vụ mất tích trong lịch sử, vụ nổ ở Tunguska, kim tự tháp Ai Cập, cho đến các hiện tượng về UFO, linh hồn, quái vật, và những loài người kỳ lạ như "Người Tuyết" Himalaya hay Sasquatch Dã nhân chân to .v.v...
Bộ sách không chỉ mô tả các sự kiện và hiện tượng mà còn cung cấp các giả thuyết, nghiên cứu, và bí ẩn vẫn chưa được giải đáp. Bên cạnh đó, bộ sách còn đi sâu vào những tấm ảnh và bằng chứng liên quan, tạo nên một không khí hấp dẫn và gợi tò mò cho độc giả.
Tuy nhiên, bộ sách cũng gặp phải một số hạn chế, như việc không đưa ra đủ bằng chứng cụ thể cho một số câu chuyện, hoặc có thể thiên về các chủ đề siêu nhiên mà không có sự cân nhắc đầy đủ với các giả thuyết khoa học.
"Bí Ẩn Mãi Mãi Là Bí Ẩn" là một bộ sách hay và bổ ích dành cho những ai yêu thích khám phá những điều bí ẩn của thế giới. Bộ sách giúp người đọc giải trí và mở rộng tầm nhìn về những điều kỳ thú xung quanh.
Dù hiện nay các phương tiện nghiên cứu và kiểm tra có tân tiến đến đâu thì những điều không thể lý giải vẫn cứ tiếp tục xuất hiện theo thời gian. Những bí ẩn đó như một thách thức giúp các nhà nghiên cứu không ngừng tiến lên phía trước, giúp con người mở rộng tầm nhìn và trở về với chính mình, với những suy nghĩ, thói quen và cả nỗi sợ hãi của bản thân.
Còn rất rất nhiều câu hỏi hấp dẫn chờ bạn trong bộ sách: "Trong Thẳm Sâu Của Bí Ẩn". Từng tập một sẽ đưa bạn đến những tầng sâu thẳm nhất của nỗi sợ hãi và hoài vọng nơi con người. Kho tàng bí mật, quái vật nơi biển rộng non cao, chuyện hồn ma bóng quế, những hiện tượng kỳ bí,...
Bộ sách: "Trong Thẳm Sâu Của Bí Ẩn" gồm có 05 tập như sau:
Cuốn sách sẽ đưa người đọc đến những tầng sâu thẳm nhất của nỗi sợ hãi và hoài vọng nơi con người.
Bạn sẽ được tiếp cận không chỉ những thông tin mới nhất mà sẽ còn bị hút vào lối dẫn chuyện có tiết tấu nhanh cùng hình ảnh minh họa sinh động.
Những hiện tượng kỳ bí, siêu linh, quái vật nơi biển rộng non cao… tất cả tràn ngập trong tập sách này để đem đến những thang bậc cao nhất của thú vui đọc sách.
Trong Thẳm Sâu Của Bí Ẩn - Tập 2: Bí Ẩn Các Nền Văn Hóa Trong Lịch Sử Loài Người
Dù hiện nay các phương tiện nghiên cứu và kiểm tra có tân tiến đến đâu thì những điều không thể lý giải vẫn cứ tiếp tục xuất hiện theo thời gian. Những bí ẩn đó như một thách thức giúp các nhà nghiên cứu không ngừng tiến lên phía trước, giúp con người mở rộng tầm nhìn và trở về với chính mình, với những suy nghĩ, thói quen và cả nỗi sợ hãi của bản thân.
Trong Thẳm Sâu Của Bí Ẩn – tập 2 thuật lại những bí ẩn lớn của các dân tộc, ngôn ngữ và các nền văn hóa, những câu chuyện kỳ bí trong suốt lịch sử loài người, vén màn bí mật nhiều điều mà sử sách đã bỏ qua. Không chỉ thế những câu chuyện trong tập sách này còn mở rộng cánh cửa giúp trí tưởng tượng của độc giả bay bổng, khơi dậy sự hiếu kỳ, đánh thức khát vọng được ngẫm nghĩ, suy tư và mơ mộng của mỗi con người.
Trong Thẳm Sâu Của Bí Ẩn - Tập 3: Giữa Huyền Thoại Và Khoa Học - Hoang Đường Và Sự Thật
"Trước mắt người hầu phòng là thi thể của vị hoàng thân già treo lủng lẳng trên chiếc móc ở khung cửa sổ bằng hai chiếc khăn tay cột vào Lẽ nào ông ta tự treo cổ được khi mà một bên cánh tay và ba ngón của bàn tay bên kia đã không còn sử dụng được?"
Án mạng hay tự vẫn? Kẻ mang mặt nạ sắt là ai? Đại hồng thủy có thật không? Những pho tượng trên đảo Eastern được dựng cho ai?
Còn rất rất nhiều câu hỏi hấp dẫn chờ bạn trong bộ sách TRONG THẲM SÂU CỦA BÍ ẨN. Từng tập một sẽ đưa bạn đến những tầng sâu thẳm nhất của nỗi sợ hãi và hoài vọng nơi con người. Kho tàng bí mật, quái vật nơi biển rộng non cao, chuyện hồn ma bóng quế, những hiện tượng kỳ bí, tất cả tràn ngập trong bộ sách này để đem đến cho bạn những thang bậc cao nhất của thú vui đọc sách.
Trong Thẳm Sâu Của Bí Ẩn - Tập 4: Những Bí Mật Được Che Đậy Trong Bóng Đêm Lịch Sử
"xác ướp của người băng Ötzi có niên đại 5.300 năm, đem theo bên mình là dao và cán mũi tên có niên đại 7.000 năm, chiếc rìu có niên đại khoảng năm 4.600 năm, một chiếc áo có niên đại 8.000 năm. Lẽ nào người đàn ông này đã sử dụng tên và áo khoác của cụ tổ nhưng lại cầm rìu của con cháu mình?"
Người băng Ötzi là phù thủy đi xuyên thời gian? Hitler phải chăng bị các hội kín chi phối? Napoléon bị đầu độc bằng thạch tín? Mỏ vàng của vua Solomon ở đâu?
Trong Thẳm Sâu Của Bí Ẩn - Tập 5: Giải Mã Những Câu Chuyện Bí Ẩn Muôn Đời
Đây là quyển sách mà từng tập một sẽ đưa bạn đến những tầng sâu thẳm nhất của nỗi sợ hãi và hoài vọng nơi con người. Kho tàng bí mật, quái vật nơi biển rộng non cao, chuyện hồn ma bóng quế, những hiện tượng kỳ bí, tất cả tràn ngập trong bộ sách này để đem đến cho bạn những thang bậc cao nhất của thú vui đọc sách.