Nguồn : www.40giayloichua.net
Mời nghe bài giảng với chủ đề "CHÚA CHỊU PHÉP RỬA" của Linh Mục Đaminh Phạm Trọng Phúc, C.Ss.R
LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Lm.Carôlô Hồ Bạc Xái
1. Mỗi người đều có sứ mạng
Hai tiếng "sứ mạng" nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi thụ tạo - nói chung là mọi "hiện hữu" - đều có một sứ mạng:
Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất
Sứ mạng của cây lúa là nuôi sống con người
Thậm chí những con vi sinh nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thấy được cũng có sứ mạng làm phân huỷ những chất thải.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo.
Mỗi người chúng ta cũng có sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi "Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo Hội, đối với anh chị em không cùng tín ngưỡng?"
Tôi được sinh ra trên đời là vì sứ mạng. Nếu tôi không chu toàn sứ mạng, hay tệ hơn nữa, nếu tôi không lưu tâm gì đến sứ mạng, thì sự hiện hữu của tôi là vô ích, chỉ là ăn hại. Chúa Giêsu đã nói "Nếu muối mà nhạt thì chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân".
2. "Con yêu dấu"
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua phép rửa, chúng ta cũng trở thành con Thiên Chúa. Về phần Chúa Giêsu, Ngài đã được khen là "Con yêu dấu của Cha". Thế nào là một người "con yêu dấu"?
là biết ý của cha mình: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện để biết ý của Chúa Cha.
và luôn làm theo ý cha mình: Chúa Giêsu nói "Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Ta". Trong vườn Cây Dầu, sau khi đơn thành tỏ cho Chúa Cha biết Ngài rất sợ chén đắng của cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu nói tiếp ngay "Nhưng xin đừng theo ý con, mà hãy theo ý Cha".
Nếu chúng ta muốn trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa thi chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa Giêsu: luôn cầu nguyện, khi đã thấy được ý Chúa thì sẵn sàng bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
3. "Nếu..."
Nếu tôi là dân Do Thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Đức Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Giođan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi, chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai. Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói "Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến". Rửa xong, tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu Thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.
Thực tế hàng ngày đã xảy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu Thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dạy: "Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con". Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở với tôi.
Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu Thế, tôi sẽ tự đắc hô to: Đấy, tôi nói có sai đâu. Ngài đến đây nè... Rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do giàu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng "Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ". Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng, để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu Thế: dù phải chặt đầu, ông vẫn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
Còn Đức Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: "Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế". Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong dòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu xin cho chúng con biết kính nhường nhau. Đó chẳng phải là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm kitô hữu cho Đấng Cứu Thế. Chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời.
(Linh mục Vũ Khắc Nghiêm, "Xây nhà trên đá" Năm A)
4. Mảnh suy tư
Thanh tẩy không chỉ là xối nước lên trán, chỉ một lần trong đời.
Chúng ta được thanh tẩy bởi mọi chuyện xảy ra trong đời.
Chúng ta được thanh tẩy bởi những gian truân thử thách, vì dòng nước xoáy này rửa sạch chúng ta khỏi giả dối và vô dụng.
Chúng ta được thanh tẩy bởi những đau khổ, vì dòng nước âm u này giúp chúng ta khiêm tốn và biết cảm thông.
Chúng ta được thanh tẩy bởi niềm vui, vì dòng nước róc rách này cho ta cảm nghiệm sự tốt lành của cuộc sống.
Chúng ta được thanh tẩy bởi tình yêu, vì nhờ dòng nước líu lo này chúng ta sẽ tươi nở như cánh hoa dưới ánh mặt trời.
Bí tích Thanh Tẩy giống như trồng một cây non, nó sẽ tiếp tục lớn lên suốt trọn đời ta.
(Flor McCarthy)
5. Chuyện minh họa
Bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nổi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi chết và được sống đời đời". Bà đáp: "Thật là tuyệt vời. Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài." Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: "Sinh 1825. Sinh lại 1925."
BÍ TÍCH RỬA TỘI
Lm. Mark Link
Vào giữa thập niên 1800 bệnh dịch cùi bùng nổ khắp các đảo Hạ Uy Di.
Vào lúc đó y học vẫn còn trong thời kỳ sơ khai, hậu quả là nhà cầm quyền không cách chi có thể chữa được căn bệnh truyền nhiễm này.
Để ngăn chặn sự lây lan họ phải thi hành một điều dù họ không thích, nhưng phải làm.
Họ thiết lập một trung tâm người cùi trên hòn đảo Molokai xa xôi. Diễn tả về tình trạng do sự kiện này tạo nên, Robert Ellsburg viết:
Người Hạ Uy Di… đau khổ vì căn bệnh này bị bắt đi ra khỏi gia đình và cộng đoàn và gửi tới đảo này…
Có thể nói bệnh nhân bị quăng vào sóng biển và để họ tự bơi vào bờ, tìm chỗ tạm trú trong các hang hoặc căn lều bẩn thỉu và bám víu lấy sự sống mà họ có thể.
Một linh mục trẻ tuổi người Bỉ, Cha Damien, thật bàng hoàng khi biết về số phận của các nạn nhân đáng thương này. Do đó, cha đã tình nguyện đến Molokai để giúp đỡ họ.
Khi đến đảo, người tổ chức họ thành một cộng đồng. Sau đó người dựng một nhà thờ và bắt đầu giúp đỡ họ theo bất cứ phương cách nào có thể.
Khi thi hành điều này, người hoàn toàn đồng hoá với họ.
Người làm việc với họ, đi lại với họ, và ăn uống với họ. Người trở nên giống họ về mọi phương cách – để chia sẻ căn bệnh thảm thương của họ.
Sau năm năm chăm sóc người cùi, Cha Damien cũng bị nhiễm căn bệnh đáng sợ này.
Người tiếp tục chăm sóc họ thêm bốn năm nữa, trước khi căn bệnh này lấy đi sự sống của cha vào năm 1889. Gần một trăm năm sau, vào năm 1995, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên phong chân phước cho người, chuẩn bị để tuyên xưng là thánh.
Câu chuyện cảm động của Cha Damien thích hợp với ngày lễ hôm nay, lễ Đức Giêsu chịu Thanh Tẩy.
Để thấy sự thích hợp đó, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc nhớ lại điều dân chúng thường hỏi: “Tại sao Đức Giêsu lại xin được thanh tẩy?”
Nói cho cùng, Thánh Phaolô nói, “Phép rửa của Gioan là cho những người xa lánh tội lỗi.” CVTĐ 19:4
Nếu Đức Giêsu không có tội, tại sao Người lại xin chịu phép rửa? Ông Gioan cũng tự hỏi như thế. Khi Đức Giêsu xin được thanh tẩy, ngay lập tức ông Gioan từ chối, nói rằng:
“Lẽ ra tôi phải được Ngài thanh tẩy, nhưng Ngài lại đến với tôi.” … Đức Giêsu trả lời ông, “Bây giờ hãy để xảy ra như vậy. Vì chúng ta phải thi hành những gì Thiên Chúa đòi hỏi theo phương cách này.”
Chính tại đây sự thanh tẩy của Đức Giêsu có liên hệ đến câu chuyện của Cha Damien.
Cha Damien đến đảo Molokai không phải vì bị bệnh cùi. Người đến đây chỉ vì muốn giúp đỡ người cùi bằng mọi phương cách có thể.
Và để giúp đỡ họ bằng mọi phương cách có thể, người đã chọn đồng hoá với họ theo mọi phương cách người có thể.
Người ăn uống với họ, làm việc với họ, cầu nguyện với họ, và người chịu đau khổ với họ.
Theo một cách tương tự, Đức Giêsu đến thế gian không bởi vì Người là một tội nhân. Người đến để giúp các tội nhân theo mọi phương cách mà Người có thể.
Và vì thế Người đồng hoá với họ theo mọi phương cách có thể - ngoại trừ tội lỗi. Đức Giêsu sống với họ, cầu nguyện với họ, ăn uống với họ, và ngay cả tự để mình chịu cám dỗ giống như họ.
Do đó, thật tự nhiên khi Đức Giêsu nới rộng sự đồng hoá với con người bằng cách chịu thanh tẩy như họ.
Giống như Cha Damien, Đức Giêsu đồng hoá với loài người đến độ hy sinh mạng sống mình vì họ.
Điều này đưa chúng ta đến với bí tích rửa tội của chính chúng ta. Qua bí tích đó, chúng ta được tháp nhập vào Thân Thể Đức Kitô. Qua đó, chúng ta trở nên các chi thể của thân thể Đức Kitô và chia sẻ sứ vụ cứu chuộc thế gian của Người.
Nói cách khác, qua bí tích rửa tội, chúng ta được mời gọi hãy sử dụng các khả năng độc đáo Chúa ban để hoạt động với Đức Kitô trong việc cứu chuộc nhân loại.
Và như vậy, bí tích rửa tội là bước đầu tiên trong hành trình lớn lên trong Đức Kitô và học cách sử dụng khả năng của mình để làm việc với Người trong sự cứu độ - cũng như Cha Đamien đã sử dụng tài năng của mình cho mục đích này.
Điều này nêu lên một câu hỏi quan trọng. Chúng ta lớn lên trong Đức Kitô như thế nào? Chúng ta phải chuẩn bị chính minh như thế nào để chia sẻ công việc cứu độ của Người?
Thánh Phaolô trả lời câu hỏi này trong Thư gửi tín hữu Côlótsê:
Vì anh chị em đã chấp nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa, hãy sống hiệp nhất với Người. Hãy bám rễ sâu vào Người, xây dựng cuộc đời anh chị em trên Người… Vậy, anh chị em hãy mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, và nhẫn nại. Col 2:6-7; 3:12-14
Nói cách khác, chúng ta thi hành điều này bằng cách bắt chước Đức Kitô.
Chúng ta cố gắng đối xử từ bi với người khác, như Đức Kitô đã đối xử với chúng ta.
Chúng ta cố gắng đối xử nhẫn nại với người khác, như Đức Kitô đã đối xử với chúng ta.
Nói tóm, chúng ta cố noi gương Đức Kitô là Người đã ban sức cho chúng ta để giúp thi hành điều này bằng cách chia sẻ chính sự sống thánh thiêng của Người cho chúng ta trong bí tích rửa tội.
Hãy kết thúc với một lời nguyện, xin Chúa Giêsu giúp chúng ta sống bí tích rửa tội của mình, như Người đã sống:
Xin cánh tay Chúa Giêsu hãy nâng con lên khi ngã quỵ.
Xin tiếng nói của Chúa Giêsu hãy dẫn đưa chúng con về nhà khi lạc lối.
Xin máu Chúa Giêsu rửa chúng con sạch khi chúng con hoen ố.
Xin thân thể Chúa Giêsu nuôi dưỡng chúng con khi chúng con đói khát.
Xin thánh tâm Chúa Giêsu giúp chúng con kết hợp với Ngài,
vì tâm hồn của chúng con được dựng nên cho Ngài,
và nó sẽ không an nghỉ cho đến khi an nghỉ trong Ngài.
NÊN THÁNH
Lm. Bùi Quang Tuấn, C.Ss.R.
Ngày nay nói đến “thánh”, người ta dễ liên tưởng đến một Cha Piô năm dấu đạo đức thánh thiện, một Giáo hoàng già rồi nhưng vẫn xông xáo trong việc quảng bá Tin mừng Phúc âm cho muôn dân, hay một Mẹ Têrêsa dấn thân chăm sóc cho những người cùng khổ.
Dường như nhắc đến “thánh” là nhắc đến những khuôn mặt dấn thân, tu trì… và không thấy giáo dân đâu hết! Phải chăng làm giáo dân khó nên thánh? Không đi tu, chỉ mong “lọt” qua cửa thiên đàng là mừng, còn ngồi đâu trong đó, xa Chúa hay gần Chúa cũng được rồi chăng? Có phải vì làm giáo dân cứ phải lăn lộn với đời nên khó làm thánh?
Đức Cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận từng viết: “Giáo dân cứ nghĩ thánh là phải sốt sắng kinh nguyện, phải xa lánh thế tục, phải hãm mình hy sinh, tức là phải giống như các nhà tu thời xưa. Trong khi các tu sĩ lại nghĩ rằng thánh là phải dấn thân giúp đời, phải lăn lộn hoạt động xã hội chính trị, phải tranh đua với giáo dân mà nhập thế. Thành ra loạn xà ngầu! Giáo dân muốn sống như nhà tu, nhà tu lại muốn sống như người trần.”
Không. Nên thánh không phải cứ làm theo những gì mình nghĩ hay muốn. Song, nên thánh là sống những gì Chúa muốn và Chúa dạy. Chúa muốn mưa, con muốn mưa. Chúa muốn nắng, con muốn nắng. Chúa muốn vui sướng, cực khổ, thành công, thất bại, con cũng muốn như vậy.
Như thế nên thánh không phải là đạt đến giây phút được thoả mãn ý mình vì đã làm được việc này cho Chúa hay chuyện kia cho Giáo hội, nhưng là khi Chúa được như ý nơi con người của tôi, dù khi không thấy chút gì thành công.
Vậy nên, những ai biết đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời, biết cộng tác để thánh ý Ngài được thực thi, họ đều là thánh.
Chúa Giêsu được gọi là Thầy Chí Thánh hay Đấng Cực Thánh là do đâu, nếu không phải vì Ngài đã luôn hết tâm thi hành ý Cha. Đức Giêsu từng nói đi nói lại với các môn đệ: “Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta” (Gn 6:38); và “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta, và chu toàn công việc của Người” (Gn 4:34).
Thi hành bổn phận của mình chính là tiến trình nên thánh chắc chắn nhất mà Lời Chúa trong ngày lễ Chúa Chịu Phép Rửa muốn nói với chúng ta.
Số là trong hôm khởi đầu sứ mạng công khai, Đức Giêsu đi đến với ông Gioan Tiền hô bên sông Giođan để xin thanh tẩy. Gioan nhận ra Ngài là Đấng vô tội, là Chiên Thiên Chúa nên vội thoái thác: “Đáng lẽ Ngài phải rửa cho tôi, chứ đời thuở nào tôi lại rửa cho Ngài”. Nhưng Đức Giêsu nói với ông: “Cứ làm đi! Vì chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế”.
Đây là lời nói được ghi nhận trước nhất trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Phải chăng Ngài muốn mở ra cho con người một chân trời mới: một con đường nên thánh qua việc chu toàn bổn phận Thiên Chúa trao ban.
Thế thì đâu chỉ có các linh mục, tu sĩ, thừa sai, hay giáo hoàng mới có bổn phận và mới có thể làm thánh. Đúng hơn, tất cả mọi người đều có một trách nhiệm nào đó và đều có thể thánh hoá mình trong bổn phận.
Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận có viết: “Người thợ nên thánh ở công xưởng, người lính nên thánh ở bộ đội, bệnh nhân nên thánh ở bệnh viện, học sinh nên thánh ở học đường, nông phu nên thánh ở ruộng rẫy, linh mục nên thánh trong mục vụ, công chức nên thánh ở công sở. Mỗi bước tiến là một bước hy sinh trong bổn phận” (Đường Hy Vọng 24).
Bổn phận không chỉ gắn liền với công việc nghề nghiệp, nhưng còn với chức năng. Chức năng đó có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, lãnh đạo, giáo dục… Không thể chỉ “mang chức” mà “từ năng” cũng như không thể chỉ có danh xưng mà nền tảng cần thiết làm nên danh xưng ấy lại không được thi hành.
Mặc khác, không thể nên thánh nếu không có Chúa. Vì Ngài là Đấng Thánh. Muốn nên thánh là phải đón nhận Chúa làm tâm điểm cuộc sống, để rồi nhờ Ngài, với Ngài, và trong Ngài, con người chu toàn và được tác thánh qua bổn phận của mình.
Có một điểm rất đáng ghi nhận từ Thánh Kinh: trong suốt quảng đời thi hành ý Cha trao phó, Đức Giêsu không ngừng gắn bó với Cha qua việc nguyện cầu. Ngài liên lỉ cầu nguyện: trong gia đình, nơi đền thánh, trên đường đi, chốn sa mạc, trong rừng vắng…. Ngài cầu nguyện ban ngày lẫn ban đêm, lúc vui cũng như khi buồn, trước phép lạ lẫn sau khi giảng dạy. Thậm chí còn cầu nguyện ngay trước lúc tắt thở: “Mọi sự đã hoàn tất” (Gn 19:30), “Lạy Cha, Con phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46).
Với sức mạnh Chúa ban qua lời cầu nguyện, con người chắc chắn sẽ đi đến đích cùng của bổn phận hằng ngày và cả đời.
Nếu khi màn chiều buông xuống hay lúc ngày đời chấm dứt, tôi cất lên được lời nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu- “Mọi sự đã hoàn tất, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”- thì tuyệt vời và hạnh phúc cho tôi biết bao.
Mời các bạn cùng cầu nguyện với 3 phút Thánh vịnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét