Trang

Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2010

Phúc âm Lễ Chúa Giáng Sinh (25/12/2010)

Nguồn : www.40giayloichua.net HÔM NAY ÐẤNG CỨU THẾ ÐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA Lm.Carôlô Hồ Bạc Xái 1. Ánh sáng bừng lên trong đêm tối Tại sao Thánh Lễ chính của Lễ Giáng sinh được cử hành ban đêm? Phải chăng vì đó là thời gian thuận tiện cho giáo dân dự lễ? Phải chăng vì bầu khí ban đêm làm cho cuộc lễ thêm phần huyền diệu và thánh thiện (như lời ca "đêm thánh vô cùng")? Phải chăng để cho đúng với sự kiện lịch sử ngày xưa Chúa Giêsu sinh ra ban đêm? Các lý do trên đều có phần đúng. Nhưng lý do căn bản nhất là: Chúa Giêsu là ánh sáng, Ngài sinh xuống trần gian như Ánh sáng bừng lên trong đêm tối. Ðêm tối tượng trưng cho tội lỗi, bất hạnh, buồn sầu; Ánh sáng tượng trưng cho ân sủng, hạnh phúc, mừng vui. Khi sinh xuống trần gian, Chúa Giêsu mang lấy trên mình tất cả tăm tối của loài người với bao tội lỗi, bất hạnh và buồn sầu, nhưng để ban lại cho loài người ánh sáng của Thiên Chúa bao gồm mọi ân sủng, hạnh phúc và mừng vui. Thực ra, những sử gia còn chưa xác định được Chúa Giêsu sinh ra vào ngày nào tháng nào. Nhưng Giáo Hội đã chọn ngày 25 tháng 12 để cử hành Lễ sinh nhật của Ngài vì hai lý do: a/ Ðây là ngày mà mặt trời chiếu sáng nhất và là ngày dài nhất trong năm; b/ xưa kia ngày này là lễ mừng Thần Mặt trời của người rôma ngoại giáo. Giáo Hội muốn chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu chính là Mặt Trời đích thực đánh tan tối tăm của tội lỗi và sự gian tà. 2. Lễ của người giàu hay của người nghèo? Trong dịp Lễ Giáng Sinh, người ta chi tiêu rất nhiều: trang hoàng, tiệc mừng, thiệp chúc, quà tặng... Xem ra đây là lễ của người giàu. Nhưng Ðấng mà người ta mừng sinh nhật thì rất nghèo: cỏ rơm, hang súc vật, tả lót sơ sài... Những khách mời ưu tiên cũng là những người chăn chiên nghèo... Dấu chỉ mà thiên thần cho những người chăn chiên ấy dựa vào để nhận ra Chúa cũng là dấu hiệu nghèo: "Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Ngài: các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". Vậy đây phải là lễ của người nghèo mới đúng. Ðể cho Lễ Giáng Sinh có ý nghĩa nghèo, người ta tổ chức thăm viếng, tặng quà, khám bệnh, phát thuốc cho người nghèo... Thực ra tất cả những việc ấy chỉ mặc cho lễ Giáng Sinh một chút dáng vẻ nghèo mà thôi. Tinh thần nghèo của Lễ Giáng Sinh và của Ðấng giáng sinh phải thấm sâu vào và thể hiện ra: bằng một lập trường sống không thượng tôn tiền bạc như chúa tể. bằng một thái độ đối xử tôn trọng và yêu thương người nghèo. bằng một cách nhìn mới hẳn, thấy chính Chúa trong người nghèo: "Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Ngài: các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". 3. Khởi đầu của một cuộc cách mạng Những cuộc cách mạng thường khởi đầu một cách rất rầm rộ. Biến cố Chúa Giêsu giáng sinh khởi đầu cho một cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong tất cả các cuộc cách mạng. Tuy nhiên sự khởi đầu này rất im lìm, nhỏ bé, bình thường: một đứa trẻ con nhà nghèo, sinh ra trong thiếu thốn, vào thời điểm âm thầm giữa đêm khuya, tại một nơi hẻo lánh hiu quạnh. Nhưng suy cho kỹ thì sẽ thấy khởi đầu như vậy mới đúng hướng và vững chắc, vì điều mà Thiên Chúa muốn làm cách mạng thay đổi chính là cách sống ồn ào, vật chất, cao ngạo, tham lam. Rồi đây, nhà cách mạng Giêsu sẽ tiếp tục lớn lên trong khiêm hạ, sẽ chiêu mộ những đệ tử khiêm hạ, rao giảng một Tin Mừng khiêm hạ... Cuộc cách mạng của Ngài sẽ biến đổi cả thế giới. Cuộc cách mạng của mỗi người chúng ta cũng phải bắt đầu như thế. 4. Vài mẫu chuyện Giáng sinh a/ Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta Một người kia không thể nào tin được việc Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang mà xuống thế mang lấy thân phận con người hèn hạ. Vì thế, đêm lễ Giáng sinh ông không cùng vợ con đi nhà thờ dự lễ, mà ở lại nhà. Sau khi vợ con đã ra đi được một lúc thì trời bắt đầu đổ tuyết. Ông thầm nghĩ: đêm nay lễ Giáng sinh, ước gì tuyết rơi trắng hết mọi nơi. Một lúc sau, ông nghe một tiếng sột soạt, rồi tiếp theo là một tiếng nữa, và nhiều tiếng nữa, giống như có ai đó ném tuyết vào cửa sổ. Ông mở cửa nhà bước ra xem. Thì ra là một đàn chim đang lao đao trong mưa tuyết muốn bay vào cửa sổ nhà ông để tìm chỗ trú. - "Tội nghiệp những chú chim nhỏ bé. Mình phải tìm cách giúp chúng mới được". Ông chợt nghĩ đến nhà kho của mình. Ông mặc áo ấm vào, đi ra cái kho sau nhà, mở cửa và gọi chúng vào. Nhưng bầy chim vẫn đứng im. - "Hay là chúng không thấy lối". Ông bật đèn nhà kho lên. Rồi trở ra gọi chúng. Chúng vẫn đứng im. - "Lạ thế! Hay mình đi lùa chúng vào". Thế là ông đi đến chỗ cửa sổ, đưa tay lùa. Lũ chim chẳng những không bay theo hướng ông lùa, mà còn bay trốn tán loạn. Cuối cùng ông mới hiểu ra: "Chúng sợ mình, vì chúng lạ với mình. Phải chi mình giống như chúng thì khi mình đến gần chúng sẽ không sợ nữa." Ðúng lúc đó, một lời Tin Mừng từ nhà thờ vọng đến tai ông: "Ngôi Lời đã trở thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta". Ông quỳ gối xuống và thưa: "Lạy Chúa, bây giờ con đã hiểu tại sao Chúa giáng sinh làm người như chúng con". b/ Món quà giáng sinh Một đôi vợ chồng trẻ, Gim và Ðêla, tuy nghèo tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau. Giáng sinh sắp tới, Ðêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng. Nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nẩy sinh một sáng kiến: Nàng có bộ tóc dài rất đẹp, nàng rất quý nó và rất hãnh diện vì nó. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ. Hôm áp lễ giáng sinh, từ phố về, nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp đựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Ðêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quý mái tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn vì nàng cắt và bán nó đi hay không. Về tới nhà, Ðêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp đựng món quà chàng mới mua cho nàng. Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tỉnh, chàng trao cho nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Ðêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém. Chính lúc đó Ðêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quý nhất của anh, để mua lược chải tóc tặng nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau những gì quý giá nhất. Họ đã hy sinh tất cả cho nhau. (Trích "Món quà Giáng sinh" ) KHÁM PHÁ CỦA EMMANUEL Cha Mark Link - Lễ Chúa Giáng Sinh Chủ đề: Giáng sinh chính là việc Thiên Chúa ngỏ lời với con người: "Ta yêu các con tới độ đã ban cho các con chính Con độc nhất của Ta. Các con cũng hãy yêu thương nhau như chính Ta đã yêu thương các con". Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ chú hỏi thầy giáo: "Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?" Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: "Thú thực là thầy không biết". Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng nhưng họ cũng chẳng biết. Thế là chú ta càng lúc càng tò mò thắc mắc hơn, chú dạo quanh khắp vùng dọ hỏi các bậc thức giả ở những làng khác: "Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?". Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi. Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết điều ấy. Vì thế chú lên đường đến những quốc gia và cả những đại lục khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi, Emmanuel đến được một ngôi làng nọ, tên là Belem. Chú cố tìm chỗ nghỉ đêm trong các quán trọ, nhưng tất cả các quán đều đã đầy người. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài thành để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra chiếc hang đá có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: "Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng ta đang mong chờ con". Chú bé quá sửng sốt làm sao bà này biết tên chú? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: "Đã từ lâu, con đã tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây hành trình của con kể như đã đến đích, đêm nay chính mắt con sẽ thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi ban cho thế gian Con Một của Ngài" (Ga 3: 16). Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quì gối xuống trước hài nhi và mừng rỡ bật khóc. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất kỳ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được. Và thế là Emmanuel ở đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người "Tin Mừng" về thứ ngôn ngữ Chúa dùng, Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu. Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: "Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế gian đều hiểu được" và kể từ ngày đó trở đi, Emmanuel bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Thiên Chúa tức là ngôn ngữ của tình yêu. Điều Emmanuel khám phá ra quả thật thú vị khi anh chị em nói với mọi người bằng thứ tiếng của tình yêu, thì họ cũng sẽ nói lại với anh chị em bằng thứ tiếng của tình yêu. Thế rồi, họ bỗng nhiên khám phá ra rằng nói bằng thứ tiếng ấy hơn biết bao nhiêu: và một khi họ đã khám phá ra điều ấy, họ sẽ không bao giờ trở lại nói thứ tiếng xưa kia của họ nữa. Vậy thì khi Emmanuel lên đường trở về nhà, chúng ta có thể noi theo bước chú, bởi vì chú đã để lại đàng sau chú một chuỗi phố phường làng mạc, nơi đó người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Về sau, khi có người kể lại cho Emmanuel những điều đã xảy đến trong các phố xá làng mạc nơi chú đã đi qua, thì chú lại khám phá ra một điều kỳ diệu thứ hai đó là khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Ngài biết rằng một khi người ta bắt đầu nói ngôn ngữ ấy, họ sẽ không còn trở lại nói thứ ngôn ngữ xưa kia của họ nữa. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi. Mọi quốc gia sẽ chia sẻ mọi nguồn lợi, và tài năng cho nhau, mọi chủng tộc sẽ đối xử với nhau bằng lòng tôn kính, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ bắt chặt tay nhau trong tình thân hữu. Lúc đó, lời hứa của Ngài qua miệng ngôn sứ Isaia sẽ thực sự được thể hiện: "Gốc Jesse nẩy sinh một chồi và từ rễ ấy một nụ bông hé nở. Thần Trí Chúa sẽ ngự xuống trên Ngài: Thần Trí khôn ngoan và thông hiểu. Bấy giờ sói sẽ là khách của chiên, báo sẽ nằm chung với trẻ nít, bò cái và gấu sẽ là láng giềng với nhau, lũ con của chúng sẽ nghỉ ngơi bên nhau; sư tử sẽ ăn cỏ giống như bò đực và trẻ nít sẽ vui đùa bên hang rắn độc…. sẽ không còn tai hoạ hay hoang tàn trên núi thánh của Ta, bởi vì mặt đất sẽ ngập tràn sự hiểu biết về Chúa khác nào nước phủ khắp đại dương" (Is 11: 1-2, 6-9) Lạy Chúa, xin giúp tất cả chúng con đang hiện diện nơi đây khám phá ra điều mà chú bé Emmanuel đã tìm thấy. Xin giúp chúng con khám phá ra ngôn ngữ của tình yêu và biết dạy cho tha nhân thứ ngôn ngữ này. Xin cho chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà mọi dân tộc đều biết chia xẻ cho nhau, mọi chủng tộc đều biết tương trợ lẫn nhau, mọi gia đình biết yêu mến nhau và mọi người đều biết thắt chặt tay nhau trong tình thân hữu. Xin giúp chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà "hoà bình thực sự ngự trị trên trái đất" và "thiện chí" toả lần đến mọi người. VẦNG ĐÔNG SOI CHIẾU Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà Trời lạnh khủng khiếp. Tuyết rơi dày vào buổi tối cuối năm. Phố xá thưa người. Giữa cảnh trời băng giá tối tăm, một bé gái bán diêm, đầu trần, chân không, lạc lõng lê bước bán hàng cho khách qua lại trên đường phố. Suốt ngày, em chẳng bán được hộp diêm nào, mà cũng chẳng ai thí cho em lấy một xu. Cơn đói cồn cào trong ruột, tuyết phủ đầy trên mái tóc. Kiệt sức vì đói và lạnh, em ngồi thu mình vào một góc giữa hai căn phố, lấy áo khoác ủ lấy đôi chân cho bớt tê cóng. Em không dám quay về bởi vì không bán được diêm mà về nhà thì bố sẽ đánh em tàn tệ; vả lại ở nhà thì trời cũng rét kém gì ở đây vì căn phòng của em trống trải quá. Khao khát mãnh liệt nhất của em lúc nầy là được sưởi ấm bằng một que diêm, chỉ một que diêm thôi. Tuy vậy, em không dám phí phạm bất cứ que diêm nào. Mất một que diêm có nghĩa là mất đi ít thức ăn, mất đi ít bánh. Em không được phí phạm. Nhưng rét quá. Hai bàn tay gần chết cóng rồi. Em chỉ ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm thôi. Thế là em liều lĩnh bật lên một que diêm. Ôi ! giữa đêm đen rét buốt, ánh sáng que diêm quá đỗi tuyệt vời! Với óc tưởng tưởng của trẻ thơ, qua ánh lửa que diêm, em thấy hiện ra một lò sưởi ấm áp. Em định đưa chân ra để sưởi cho đôi chân bớt cóng thì que diêm lụi tàn, ngọn lửa tắt và lò sưởi cũng biến theo. Thôi đánh bạo hy sinh thêm một que diêm nữa. Ánh sáng lại bùng lên. Ồ thích quá ! ấm áp quá ! Ánh lửa ấm áp gợi lên trong tâm trí em một phòng ăn ấm cúng, có bát đĩa bằng pha lê và tuyệt vời hơn hết là trên bàn có một con ngỗng quay đang tỏa hương thơm phức. Ước chi em được ngồi vào bàn ăn đó một lần trong đời. Thế nhưng ánh lửa diêm lại lụi tàn, bàn ăn sang trọng và con ngỗng biến mất, em lại trở về với vỉa hè và đêm đen rét buốt. Thế rồi, em bị cám dỗ mãnh liệt bật thêm que diêm thứ ba. Qua ánh sáng que diêm, em thấy hình ảnh bà ngoại của em hiện về. Mừng quá, em gào lên : « Bà ơi, Bà chờ cháu với, hãy cho cháu đi theo bà! » Em sợ diêm tắt và hình ảnh của Bà cũng tắt theo, nên em bật thêm que diêm thứ tư, thứ năm và rồi bật hết những que diêm còn lại, bởi vì em không muốn Bà biến đi. Trong trí tưởng tượng của em, Bà rất đẹp, rất hiền hòa và đầy lòng yêu thương. Bà ôm lấy em và cả hai bà cháu bay bổng lên cõi thiên đàng, đến nơi chẳng còn lạnh lẽo, chẳng còn đói khát, chẳng còn đau thương !!! Qua sáng hôm sau, ngày đầu năm, khi trời hừng sáng, người qua lại phát hiện em bé nằm thu mình bên góc phố, má còn phớt hồng và nụ cười còn mỉm trên môi ... nhưng đã chết tự bao giờ. (phỏng theo truyện cổ của Hans Christian Andersen). Thân phận đứa bé bán diêm cũng là thân phận của nhân loại hôm nay. Nhân loại hôm nay đang lâm cảnh đói rét tinh thần nghiêm trọng. Đói khát tình thương, đói khát hoà bình và hạnh phúc. Rét vì thiếu hơi ấm của tình người, rét vì thiếu lòng thương xót. Vì thế, nhân loại đang cần được sưởi ấm bởi tình thương, nhưng tình thương trên thế giới nầy chỉ lập lòe như một ngọn lửa diêm, bùng lên giây lát rồi tắt ngúm, không đủ sưởi ấm cõi lòng băng giá của bao người. Vì thế con người phải chết cóng vì ghẻ lạnh của bao người khác, vì chiến tranh, vì khủng bố kinh hoàng… Nhân loại đang khát mong những ánh lửa yêu thương làm ấm lại bao cõi lòng băng giá, như em bé bán diêm cần ánh lửa của một que diêm để sưởi ấm đôi tay lạnh cóng của mình. Khát vọng của nhân loại đã được Thiên Chúa đáp ứng. Không phải là ban một ánh lửa diêm hay một lò lửa để sưởi ấm, nhưng Thiên Chúa đã rộng ban cho loài người cả một Mặt Trời, một Vầng Đông, như lời kinh thánh: « Thiên Chúa Ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và từ trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an. » (Lc 1, 78) Chúa Giê-su là Vừng Đông rực rỡ, là Ánh Thái Dương xuất hiện từ trời cao và dần dần xóa đi màn đêm tăm tối bao trùm nhân loại. Vầng Đông Giê-su soi chiếu cho nhân loại biết rằng cả thế giới chỉ là một mái nhà chung và tất cả mọi người đều là anh em vì có chung một Cha trên trời, vì thế mọi người phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau và những gì chúng ta làm cho người chung quanh là làm cho chính Thiên Chúa. Nếu nhân loại hôm nay tiếp nhận sứ điệp quan trọng nầy của Chúa Giê-su và đem ra thực hành thì tình yêu thương sẽ chan hòa khắp mặt đất làm ấm lòng mọi người cũng như đem lại hạnh phúc cho muôn dân. Nhưng điều quan trọng là mỗi người hãy tự hỏi mình : Ánh Sáng của Vầng Đông Giê-su đã soi chiếu vào tâm trí và cuộc đời tôi chưa ? Hay là tôi đang còn chìm trong bóng tối? Trước khi trả lời câu hỏi nầy, chúng ta theo dõi đối thoại sau đây : Một vị hiền triết hỏi các thính giả bao quanh: « Lúc nào là lúc đêm chuyển sang ngày? » Mới nghe qua, câu hỏi nầy dễ ợt. Một người làm nghề chăn nuôi trả lời: đó là lúc trời hừng đông. Bấy giờ, người chăn nuôi nhìn vào chuồng gia súc của mình và có thể phân biệt được con nào là cừu, con nào là dê. Người làm vườn thì lại đáp: « Đó là lúc ta nhìn vào vườn cây của mình và có thể phân biệt được cây nào là xoài, cây nào là mít, đâu là nhà ngói, đâu là nhà tranh.» Nhà hiền triết không bằng lòng với những câu đáp trên nên cuối cùng, ông nói: « Lúc đêm chuyển qua ngày là khi người ta nhìn vào người chung quanh và nhận ra đó chính là người anh em con cùng một Cha với mình.» Ánh Sáng của Vầng Đông Giê-su đã giúp tôi nhận ra người chung quanh là anh em của mình chưa? Nếu tôi coi tha nhân là hoả ngục, là người xa lạ… (theo ngôn ngữ của các triết gia) hay bảo tha nhân là thù địch… thì chúng ta đang còn ở trong bóng tối, đang thuộc về thế giới tối tăm. Nếu tôi nhìn vào người chung quanh và nhận ra họ đúng là anh em con cùng một Cha với mình, thì tôi đã được Ánh Sáng của Chúa Giê-su soi chiếu và đang được sống giữa Ban Ngày. Trong đêm thánh nầy, đêm tưởng niệm lại biến cố Chúa Giê-su là Vầng Đông từ trời đến chiếu soi và sưởi ấm nhân loại, chúng ta cầu xin cho mọi người biết mở lòng đón nhận ánh sáng của Vầng Đông Giê-su. Ánh sáng nầy sẽ giúp cho nhân loại nhận ra mọi người là anh em con cùng một Cha và như thế mọi người sẽ không còn phải sống trong tối tăm lạnh lẽo, nhưng được sưởi ấm bằng tình yêu thương huynh đệ ngàn đời. Xin mời cùng cầu nguyện với 3 phút bằng Thánh Vịnh và Đáp Ca Xin mời thưởng thức một số bản nhạc về mùa Giáng Sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét