Trang

Thứ Bảy, 31 tháng 7, 2010

Phúc âm Lễ Chúa Nhật XVIII QN ngày 01/08/2010

Nguồn : www.40giayloichua.net Mời nghe bài giảng chủ đề "Hỏa Ngục" qua Linh Mục Giuse Nguyễn Đình Trung, C.Ss.R
Chớ cậy vào của cải vật chất Lm. Carolô Hồ Bạc Xái Chủ đề : "Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?" (Lc 12, 20) * 1. Có tiền và xài tiền Một lão trọc phú keo kiệt kia đã tích lũy được một số tiền rất lớn và đang mơ tới tương lai hạnh phúc đang chờ đón lão. Tuy nhiên trước khi lão kịp vung tiền ra mua lấy hạnh phúc thì thần chết hiện ra đòi bắt hắn xuống âm phủ. Lão thương lượng: "Xin Thần chết cho tôi sống thêm ba ngày nữa thôi. Tôi sẽ chia cho Ngài một nửa tài sản của tôi". Thần chết không chịu. Lão xuống giá: "Vậy xin cho tôi sống thêm một ngày. Tôi sẽ giao cho Ngài tất cả tài sản". Thần chết vẫn không chịu. Lão nài nỉ "Xin cho tôi một phút thôi, để tôi kịp viết lời trối". Thần chết đồng ý. Lão ngồi xuống, cầm bút viết câu sau đây: "Gửi người nào gặp được tờ giấy này. Nếu bạn có đủ tiền để sống thì đừng uổng phí cuộc đời để kiếm thêm nhiều tiền nữa làm chi. Hãy lo sống thôi! Tiền bạc của tôi rất nhiều, nhưng chỉ một giờ để sống tôi cũng chẳng mua được!" Tiền của không phải để sở hữu mà để hưởng dùng. Nói nôm na, tiền bạc không phải để "có" mà để "xài". Nhiều người rất biết cách "sở hữu" nhưng lại không biết cách "hưởng dùng". Rốt cuộc họ không hạnh phúc bằng một đứa trẻ, sở hữu rất ít nhưng hưởng dùng rất nhiều. Người giàu thật không phải là người có nhiều mà là người hưởng dùng nhiều. Cố gắng để có thật nhiều tiền mà không thể hưởng dùng thì chẳng khác gì một người mù cố gắng thu góp thật nhiều băng Vidéo.Vấn đề đặt ra là "hưởng dùng" và "xài" tiền như thế nào. * 2. Nghệ thuật làm giàu Một ngày nọ, vua Nghiêu đi tuần thú đất Hoa, viên quan địa phương đất ấy ra nghênh đón và chúc vua rằng: "Xin chúc nhà vua sống lâu". Vua Nghiêu nói: "Đừng chúc thế!" Viên quan lại chúc: "Chúc nhà vua giàu có". Vua Nghiêu lại nói: "Đừng chúc thế". Viên quan chúc nữa: "Xin chúc nhà vua đông con trai". Vua Nghiêu lại nói: "Đừng chúc thế". Quan lấy làm lạ mới hỏi nhà vua: "Sống lâu, giàu có, đông con trai, ai cũng thích cả, sao nhà vua chẳng muốn?" Vua Nghiêu đáp: "Đông con trai thì sợ nhiều. Giàu có thì việc nhiều. Sống lâu thì nhục nhiều. Ba điều ấy không mang lại nhân đức nên ta từ chối". Viên quan tâu: "Nhà vua nói thế thực là bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra mỗi người phải có một việc Nếu đông con trai, hãy cắt đặt mỗi người một nhiệm vụ thì có lợi chứ có gì mà sợ? Giàu có mà đem phân phát cho người nghèo thì còn công việc gì mà lo? Ăn uống có chừng mực, thức ngủ có điều độ, trong lòng thanh thoả, thiên hạ tài giỏi thì vui cái vui của họ, trăm tuổi nhắm mắt về cõi trời. Một đời chẳng gây tai hoạ gì, hỏi có gì là nhục?" Đứng trước tiền của, người ta có những thái độ rất khác nhau: Vua Nghiêu vì quá thận trọng chỉ nhìn thấy mặt trái của đồng tiền, nên của cải không sinh ích gì cho ông. Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay lại quá cậy dựa vào tiền của, nên khi thần chết bất ngờ đến thì tiền muôn bạc nén cũng không cứu được linh hồn ông. Duy chỉ có viên quan địa phương là có thái độ đúng mực về tiền bạc: Nếu giàu có thì đem chia sẻ cho người thiếu thốn. Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà "làm giàu trước mặt Thiên Chúa" (Lc 12, 21). Đó chính là "nghệ thuật làm giàu" đích thực. (TP) * 3. Túi tham không đáy Tolstoi kể rằng một người nông dân kia tên là Pakhom rất ham thích có một mảnh đất làm tài sản riêng. Sau một thời gian làm lụng cực nhọc, anh tậu được một mảnh đất 40 mẫu. Anh mừng lắm. Nhưng chẳng bao lâu anh muốn một mảnh đất rộng hơn. Anh lại làm lụng và để dành, bán mảnh đất cũ, cộng thêm tiền để dành, mua được một mảnh đất 80 mẫu. Nhưng anh chưa thoả mãn, muốn tìm một mảnh đất khác rộng hơn nữa. Có người cho anh biết rằng ở vùng bên kia núi có một bộ lạc mà dân chúng sống rất đơn giản, họ có rất nhiều đất, ai muốn mua bao nhiêu cũng được. Ngay sáng hôm sau, anh nông dân đi sang vùng bên kia núi. Vị tù trưởng bộ lạc nói: "Anh chỉ cần trả 1000 rúp thì có thể sở hữu được một vùng đất mà anh đi được trong một ngày. Nhưng cần nhớ là anh phải trở lại đúng nơi điểm xuất phát cũng trong ngày đó. Nếu về không kịp thì kể như mất tiền vô ích". Đêm đó người nông dân sung sướng ngủ không được. Vừa rạng sáng hôm sau anh nhờ người đánh dấu điểm xuất phát rồi bắt đầu bước đi. Càng đi anh càng sung sướng vì thấy đất của mình càng rộng thêm. Anh cứ đi và đi mãi quên mất thời gian. Khi thấy mặt trời bắt đầu xuống núi anh mới hốt hoảng quay về. Nhưng vì anh đã đi quá xa sợ về không kịp nên anh cắm đầu chạy. Đến điểm mốc, anh ngã gục xuống. Vị tù trưởng đến chúc mừng: "Xin chia vui với anh. Từ trước tới nay tôi chưa gặp được người nào đi xa được như anh. Anh hãy nhận phần đất của anh". Nhưng người nông dân không đứng dậy được nữa để nhận lấy tài sản của mình, vì anh đã chết! Có được một số tiền bạc của cải để sống là điều cần thiết. Vì thế trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu không phê phán việc chúng ta tìm cái ta cần, mà phê phán lòng tham hơn mức ta cần . Nếu người nông dân trong chuyện trên biết dừng lại khi đã có 40 mẫu đất anh cần thì anh đã sống hạnh phúc, nhưng anh đã chết vì anh cứ mãi mê chạy theo lòng tham của mình. Lòng tham giống như ngọn lửa: ta càng thoả mãn nó bằng cách chất thêm củi vào thì lửa càng bùng to lên và càng đòi nhiều củi thêm. Chứng bệnh trầm trọng nhất của con người trong nền kinh tế thị trường và văn minh hưởng thụ này là con người không biết khi nào mình đủ. Có của không phải là tội, nhưng tham của thì thành tội. Hãy xem những con chim. Khi chúng xây dựng tổ ấm, chúng chỉ tìm vài nhánh cây đủ cho cái tổ ấy rồi thôi. Hãy xem những con nai. Khi chúng khát, chúng chỉ uống vừa đủ rồi thôi. Sao chúng ta không đơn giản như những con chim và những con nai kia! * 4. Gia tài để lại cho con cái Có thể chúng ta cố gắng kiếm tiền không phải để cho mình hưởng, nhưng để làm gia tài trối lại cho con cái. Xin hãy nghe câu chuyện sau đây: Người kia làm việc trong một công ty đang phát triển mạnh, lương anh khá cao cho nên gia đình rất hạnh phúc. Anh có một ngôi nhà xinh xắn, một người vợ hiền và mấy đứa con ngoan. Nhưng anh tự nghĩ: mình còn trẻ, sức lực còn nhiều. Mà công ty hiện không thiếu việc. Thế là anh làm thêm giờ phụ trội. Thu nhập càng cao hơn. Anh lại nghĩ: nếu mình phấn đấu để lên chức thì sẽ được tăng lương nữa. Và anh phấn đấu, và quả thực anh lên chức. Cho đến một hôm đi khám bệnh, anh được biết mình đã mắc phải một chứng bệnh nguy hiểm và đã tới giai đoạn cuối cùng. Nghĩa là anh không sống được bao lâu nữa. Lúc sắp rời bỏ vợ con ấy, anh mới biết rằng xưa nay anh chẳng hiểu vợ con bao nhiêu, và con cái anh cũng chẳng hiểu anh bao nhiêu. Và anh chết, để lại cho con cái một gia tài lớn. Đối với người khác, anh là một con người thành đạt. Nhưng đối với vợ con thì anh là một con người thất bại. Vợ con anh hưởng gia tài của anh mà chẳng nghĩ tới anh bao nhiêu: bấy lâu nay họ sống không có anh, sau này họ cũng tiếp tục sống không cần anh. Bởi vậy trong bài Tin Mừng này Chúa Giêsu đã không quan tâm đến gia tài. Khi một người đến nhờ Ngài phân xử việc tranh chấp gia tài. Ngài đã không xử, lại còn cảnh cáo "Các ngươi hãy coi chừng giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu". * 5. Tiền bạc Người ta nói trên đời quan trọng nhất là 2 chữ T: tình và tiền. Hôm nay chúng ta có dịp bàn đến chữ T thứ 2, Tiền. Tiền bàn ở đây không phải chỉ là những tờ giấy bạc, mà còn bao gồm tất cả những gì là của cải tài sản vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, máy móc v.v. Cách chung thì ai ai cũng cần tiền và cũng ham tiền hết. Không có tiền thì đói rách, con cái nheo nhóc, mặc cảm với bạn bè... Còn nếu có tiền thì ta ăn ngon mặc đẹp, con cái được giáo dục tử tế, bạn bè xã hội trọng nó... Tóm lại câu nói "có tiền mua tiên cũng được" có thể là câu nói diễn tả quan niệm chung của nhiều người. Nhưng hình như đó lại không phải là quan niệm của Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay. Bài đọc 1 trích từ sách Giảng viên thì coi tiền bạc là thứ phù hoa "Phù hoa nối tiếp phù hoa trần gian tất cả chỉ là phù hoa" .Bài đọc trích từ thư thánh Phaolô gởi tín hữu thành Colossê thì kêu gọi "Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất". Còn bài Tin Mừng thì mô tả một người phú hộ hả hê với những của cải chất đầy từ kho này tới kho khác, nhưng bị Chúa trách "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay Ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?", và Chúa Giêsu kết luận: Kẻ nào tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy. Phải chăng Chúa không muốn cho ta có tiền? Phải chăng Chúa muốn người có đạo phải nghèo? Phải chăng Chúa khuyên chúng ta phải chạy trốn tiền bạc? Thưa không, không bao giờ, bởi vì những của cải vật chất trên đời này do đâu mà có? Do chính Chúa tạo dựng nên, và Chúa tạo dựng nên chúng là để cho con người hưởng dùng. Cho nên không những Chúa không muốn con người phải đói khổ, mà Chúa còn muốn sao cho con người được đầy dư của cải. Hãy nghe một lời chúc phúc của Chúa ghi trong Tv 71 Khắp xứ sở đầy dư gạo thóc Đỉnh non cao gợn sóng lúa vàng Và trong Tv 64: Thăm trái đất mưa nhuần Chúa rải. Cho tràn trề của cải sinh ra... Vùng hoang địa cỏ hoa đua nở Cảnh núi đồi hớn hở xinh tươi. Chiên bò gặm cỏ đồng xanh. Nương vàng sóng lúa lượn quanh dạt dào. Câu hò tiếng hát trổi cao... Rõ ràng là Chúa muốn con người sung túc vật chất. Nhưng Chúa cũng biết tiền bạc vật chất vì có khả năng đem lại cho con người rất nhiều tiện nghi sung sướng nên cũng có thể khiến con người chỉ say mê nó mà quên hết mọi giá trị khác. Bởi đó Chúa mới nói "Kẻ giàu có vào nước Thiên Chúa thật là khó, còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim". Nhưng, tuy có khó thật chứ cũng có những người giàu có được vào nước Thiên đàng: trong Tin Mừng ta thấy Chúa cũng đề cao những người giàu có, chẳng hạn như ông Giakêu, tuy giàu nhưng biết sử dụng tiền bạc mình để làm những việc nghĩa. Như vậy, Lời Chúa hôm nay không đề cao tiền bạc mà cũng không khinh rẻ chúng. Chúa chỉ muốn chúng ta lưu ý hai điều: một là nhận định đúng giá trị của tiền bạc và hai là sử dụng đúng những tiền bạc mà Chúa đã ban. Bây giờ chúng ta hãy nhận định giá trị của tiền bạc: Tiền bạc là một yếu tố quan trọng làm cho đời ta được sung sướng . Nhưng nó cũng là một con dao hai lưỡi, nghĩa là nó vừa có thể giúp ta sống tốt hơn "Phú quý sinh lễ nghĩa", mà cũng có thể làm ta thành xấu đi, xấu đi vì tham lam, xấu đi vì gian lận, xấu đi vì lòn cúi... Vả lại tiền bạc không được bền vững: thiếu gì người hôm nay đang giàu sụ, thế mà ngày mai đã trở thành tay trắng. Và nhất là khi chết ta không thể mang tiền bạc theo được. Sau khi đã nhận định đúng giá trị của tiền bạc, chúng ta hãy lắng nghe Chúa dạy phải xử dụng tiền bạc như thế nào: Hãy dùng tiền bạc đời này để làm giàu cho đời sau. * 6. Chuyện minh họa a/ Ba người bạn Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa. Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng. (Trích "Phúc") b/ Những thứ tiền không mua được George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn. ".Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được: Tiền không mua được tình bạn chân thực. Tiền không mua được lương tâm trong sạch. Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ. c/ Đổi tiền Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời. * 7. Một phút suy tư Một buổi tối, tôi thả bước lang thang Tôi đi từ những khu phố lấp lánh ánh đèn Bước chân dần dần đưa tôi đến vùng ngoại ô vắng vẻ Ở đấy tôi thấy ngàn vạn ánh sao còn rực rỡ gấp bội. Và tôi chợt hiểu ra rằng những ngọn đèn trần thế dễ che lấp những ngọn đèn trời đến mức nào. Lạy Chúa xin cho những hào nhoáng của đời này đừng bao giờ làm cho con mù lòa không còn thấy ánh vinh quang Nước Trời. Chúng ta sắp trở lại cuộc sống mà trong đó mọi người bon chen, tranh dành nhau tiền bạc của cải. Là những môn đệ của Chúa, chúng ta hãy cố gắng sao để vừa làm ăn kiếm tiền vừa không bị tiền làm cho mình ra xấu xa tội lỗi. Amen .
CUỘC GẶP GỠ Cha Mark Link, S.J. Chủ đề: "Điều quan trọng trong đời không phải những gì chúng ta kiếm được, nhưng con người mà chúng ta trở thành" Nhiều năm trước đây, một nhà hàng ăn ở Chicago có tấm trải bàn độc đáo trên mỗi bàn ăn. Và nếu bạn muốn, người hầu bàn sẽ vui vẻ tặng bạn tấm trải bàn này để đem về nhà, đóng khung và treo trên tường. Trên tấm trải bàn ấy có ghi lại một câu chuyện như sau: "Vào năm 1923, một cuộc họp quan trọng đã xảy ra tại khách sạn Edwater Beach ở Chicago. Tham dự cuộc họp này là các nhân vật sau đây: "Chủ tịch công ty sắt thép lớn nhất, chủ tịch công ty sản xuất đồ tiêu dùng lớn nhất, chủ tịch công ty dầu khí lớn nhất, chủ tịch thị trường trao đổi chứng khoán Nữu Ước, chủ tịch Ngân Hàng Tài Sản Quốc Tế, người dự trữ lúa mạch lớn nhất, người có nhiều chứng khoán nhất ở Wall Street, người đại tư bản độc quyền lớn nhất thế giới, và một bộ trưởng của chính phủ Harding." Thật là một danh sách của những người nổi tiếng. Tuy nhiên, 25 năm sau, chín nhà đại tư bản này đã ra sao? Theo câu chuyện được in trên tấm trải bàn, chủ tịch công ty sắt thép lớn nhất là Charles Schwab đã từ trần trong sự phá sản; chủ tịch công ty sản xuất đồ tiêu dùng lớn nhất là Samuel Insull khi chết không có một đồng xu dính túi; chủ tịch công ty dầu khí lớn nhất là Howard Hobson trở nên điên dại; chủ tịch thị trường chứng khoán Nữu Ước là Richard Whitney vừa mới ra khỏi tù; chủ tịch ngân hàng là Leon Fraser thì tự tử; người dự trữ lúa mạch lớn nhất là Arthur Cutten chết trong sự nghèo nàn; người có nhiều chứng khoán nhất ở Wall Street là Jesse Livermore thì tự tử; người đại tư bản độc quyền lớn nhất thế giới là Ivar Kruegar cũng tự tử; và ông bộ trưởng của chính phủ Harding là Abert Fall vừa mới được ân xá mãn hạn tù để có thể về chết ở nhà! Câu chuyện này nhấn mạnh đến vài điểm đằng sau bài Phúc Âm hôm nay. Và đó là điểm gì? Điểm đó được tóm lược trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về người phú hộ dại khờ. Trái với ý nghĩ của nhiều người, trong dụ ngôn này Chúa Giêsu không đả phá việc tìm kiếm của cải. Người không đả phá các công ty. Điều Chúa Giêsu đả phá là ý tưởng điên rồ của một số người khi coi tài sản vật chất quan trọng hơn tài sản tinh thần. Một vài năm trước đây, một nhà truyền giáo ở Phi Châu cho biết người dân ở đây có thói quen mai táng người chết mà cởi bỏ hết y phục. Một trong những mục đích của thói quen này là để nhấn mạnh đến sự kiện: chúng ta từ bỏ thế giới này cũng y như khi chúng ta đi vào thế giới ấy. Đó cũng chính là điểm Thánh Phaolô viết trong Thư I gửi cho Timôtê, "Cái gì chúng ta đem vào thế giới này? Chẳng có gì. Cái gì chúng ta đem ra khỏi thế giới này? Cũng chẳng có gì!" 1 Tim. 6:7 Và đây cũng là điểm mà Chúa Giêsu muốn nói trong dụ ngôn người phú hộ dại khờ. Người nói với chúng ta rằng khi chúng ta chết điều đáng kể không phải là tài sản chúng ta kiếm được khi còn sống, nhưng là con người mà chúng ta trở thành trong hành trình cuộc đời. Chúa Giêsu nói rằng điều ưu tiên trong đời sống phải là trở nên một con người đích thực, chứ không phải tìm kiếm tài sản. Một cách cụ thể, chúng ta đã vi phạm điều ưu tiên mà Chúa Giêsu muốn nói đến khi chúng ta tìm kiếm của cải mà trở nên thiếu thành thật, khi chúng ta có được quyền thế mà trở nên tàn nhẫn độc ác, khi chúng ta được nổi tiếng trong cộng đồng mà quên đi chính gia đình mình. Nói tóm lại, chúng ta đã vi phạm điều ưu tiên mà Chúa Giêsu nói đến khi chúng ta có được của cải chóng qua ở thế gian này mà đánh mất của cải vĩnh cửu ở đời sau. Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại các ưu tiên trong đời sống. Hãy nghĩ như thế này. Nếu có ai hỏi con bạn, "Ưu tiên hàng đầu của bố con trong đời sống là gì?" thì con bạn sẽ trả lời thế nào? Liệu cháu sẽ nói, "Ô dễ quá. Ưu tiên hàng đầu của bố cháu là gia đình!" Hoặc cháu sẽ nói, "Ưu tiên hàng đầu của bố cháu là công việc làm ăn!" Hoặc nếu có ai hỏi cô con gái bạn, "Ưu tiên hàng đầu của mẹ con trong đời sống là gì?" thì con bạn sẽ trả lời thế nào? Liệu cháu sẽ nói, "Ô dễ quá. Ưu tiên hàng đầu của mẹ cháu là gia đình!" Hoặc cháu sẽ nói, "Cháu cũng không biết rõ nhưng chắc chắn không phải là gia đình!" Hoặc nếu có ai hỏi cha bạn: ưu tiên của bạn là gì, thì cha bạn sẽ trả lời sao? Liệu ông có trả lời như một người cha nọ đã nói, "Thật khó thú nhận, nhưng tôi phải nói là nó chỉ biết đến mình. Nó chẳng thích gì cả trừ khi điều đó có lợi cho nó." Nhiều năm trước đây, vào một buổi sáng nọ ông Alfred Nobel mở tờ nhật báo ra và thấy bài cáo phó của mình ở trong đó. Một phóng viên người Pháp đã cẩu thả loan tin ông từ trần thay vì em của ông. Ông Alfred thật bàng hoàng. Vì lần đầu tiên trong đời, ông nhìn về chính mình dưới con mắt của người khác. Ông thấy chính mình như một "ông vua thuốc nổ" đã dùng toàn thể cuộc đời để chế tạo vũ khí sát hại và tiêu diệt. Sáng hôm ấy, ông Nobel quyết tâm thay đổi hình ảnh người ta nhìn về ông. Sự quyết tâm của ông đã đưa đến kết quả là các giải thường Nobel hằng năm trong các lãnh vực vật lý, hóa học, y học, văn chương và hòa bình. Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy thi hành giống như ông Alfred Nobel. Nó mời gọi chúng ta hãy tưởng tượng đọc bài cáo phó của mình. Nó mời gọi chúng ta nhìn về chính mình dưới con mắt của người khác. Nó mời gọi chúng ta nhìn về con người thực sự của mình. Nó mời gọi chúng ta nhìn về chính mình như Thiên Chúa nhìn chúng ta. Hoặc, theo ngôn ngữ trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, nếu chúng ta phải ra trước mặt Thiên Chúa tối nay để báo cáo về cuộc đời trần thế này, thì liệu Thiên Chúa có nói với chúng ta như Người đã nói với ông phú hộ kia: "Sao con dại thế! Nếu đêm nay con phải từ giã cuộc đời này thì ai sẽ hưởng tất cả những gì con cất giữ cho mình?" Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã nói với các môn đệ, "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì?" Xin Chúa giúp chúng con luôn ghi nhớ những lời ấy. Xin giúp chúng con nhìn ra con người đích thực của chúng con. Nhất là xin giúp chúng con nhận ra điều đáng kể khi chúng con từ giã cõi đời này, không phải những gì chúng con kiếm được, nhưng là con người mà chúng con phải trở thành trong hành trình cuộc đời. Amen. BẤP BÊNH (Lc 12:13-21) Như Hạ op Mọi người đang chóng mặt với giá cổ phần trồi sụt thất thường. Sức mạnh nền kinh tế thể hiện rõ nét qua sinh hoạt thị trường. Mức phát triển trì trệ hôm nay đã làm cho bao người thất nghiệp. Người ta đổ xô đi tìm những phương tiện sinh sống. Bao nhiêu tay tư bản đang thi đua khám phá những cách làm giàu nhanh nhất. Nhưng cuộc chạy đua đó đang hướng về đâu ? NHỮNG CÁCH LÀM GIÀU. Cuộc chạy đua đó đang mang lại cho cuộc sống mọi thứ tiện nghi và bảo đảm. Con người ngày càng hạnh phúc và tin tưởng vào năng lực của mình. Chính của cải đã khiến họ có thể an tâm tọa hưởng tất cả những nguồn lợi thiên nhiên. Giữa cuộc sống dư thừa đó, con người dễ quên tất cả. Chỉ còn một mình với những phương tiện dồi dào đáp ứng những đòi hỏi ích kỷ của mình. Ðó chính là tâm trạng của nhà phú hộ trong Tin Mừng hôm nay. Nhà phú hộ tràn ngập niềm vui vì "ruộng nương sinh nhiều hoa lợi." (Lc 12:16) Nhìn về tương lai, ông thấy rất yên tâm, vì "bây giờ ê hề của cải." (Lc 12:19) Nhưng ông vẫn phải tính toán để bảo đảm cho những của cải khỏi hư hao vì giông bão, mối mọt, hay trộm cướp. Ông tự nhủ : "Mình sẽ làm thế này : phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó." (Lc 12:18) Lúc nào ông cũng chỉ có một quan tâm duy nhất về cái tôi của mình. Trên đỉnh cao danh vọng, ông thấy hoàn toàn tự mãn về sự nghiệp lớn lao của mình. Ông không cần chia sẻ với ai. Người nghèo hay cộng đồng nằm ngoài đối tượng phục vụ của ông. Thiên Chúa cũng bị gạt ra ngoài mọi ưu tư và cuộc sống của ông. Trong khi ông quả quyết "mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !" (Lc 12:19), "Thiên Chúa bảo ông ta: ?Ðồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ??" Nhà phú hộ không suy nghĩ sâu xa. Ông tưởng cái tôi là nền tảng vững chắc nhất cho hạnh phúc. Tất cả hạnh phúc hôm nay đều xoay quanh và dựa trên cái tôi của ông. Nhưng chính cái tôi đó lại không có mấu cứ, làm sao có thể làm nền tảng cho hạnh phúc ? Hạnh phúc chỉ lànhững dong dêu trôi nổi trên dòng sông dật dờ. Ðúng là dã tràng xe cát biển đông. Khác với ông Gióp, ông không bị mất của cải. Ông chỉ bị đòi mạng. Khi bị đe dọa trầm trọng như thế, ông giật mình. Ông không thể không suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời và giá trị những thực tại trần gian. Tiền bạc, của cải là gì trước cái chết ? Mạng sống chỉ có một. Của cải dư tràn cũng không thể sánh với mạng sống. Bởi đấy mất mạng, của cải trở thành vô nghĩa. Chính ông Côhelét đã cảm thấu được sự vô nghĩa đó khi thuật lại : "Có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Ðiều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại họa." (Gv 2:21) Thật là cái vòng luẩn quẩn ! Bao nhiêu tim óc đầu tư tìm kiếm của cải. Bao nhiêu thời giờ và công sức xây dựng cơ ngơi, sự nghiệp. Tất cả có thể biến đi trong nháy mắt hay phải trao lại cho người khác. Nhìn lại cuộc đời, ông Côhelét phải thốt lên : "Trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền ! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Ðiều ấy cũng chỉ là phù vân !"(Gv 2:23) Nghĩ cho cùng, "tất cả chỉ là phù vân." (Gv 1:2) Nếu thế, tại sao con người phải bon chen dành giựt ? Của cải vật chất không thể mang lại ý nghĩa giá trị đích thực cho con người. Chính Ðức Giêsu đã vạch trần sự thật ấy : "Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó." (Lc 12:21) Cái tôi là trở ngại lớn nhất cho mọi thực tại hướng về Thiên Chúa. Muốn "làm giàu trước mặt Thiên Chúa" phải có một cái nhìn mới lạ và phải vận dụng những phương tiện khác hẳn với lối làm giàu bình thường. Quả thế, Ðức Giêsu đã mách nước : "Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu," (Lc 16:9) tức là Nước Thiên Chúa. Càng có nhiều bạn bè như thế, càng tích trữ được một kho tàng lớn lao trên trời. Bạn bè đó chính là người nghèo. Trong khi bao người nghèo rên siết, ông phú hộ chỉ lo "ăn uống vui chơi cho đã !" Tiền bạc là một cám dỗ lớn lao. Ông đã không chống cưỡng nổi ma lực của đồng tiền. Muốn làm môn đệ Chúa Kitô, "phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu." (Lc 12:15) Chỉ có một bảo đảm duy nhất là "Ðức Kitô, nguồn sống của chúng ta." (Cl 3:4) Kho tàng của chúng ta đang được ẩn giấu nơi Ðức Kitô. Ðúng hơn, "sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Ðức Kitô nơi Thiên Chúa." (Cl 3:3) Chúng ta phải đầu tư bao nhiêu thời giờ và tim óc để có thể tạo được một sự sống đúng nghĩa như thế ? Ðầu tư đó bắt đầu bằng nỗ lực "mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Ðấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu." (Cl 3:10) Con người cũ đầy những giới hạn, nên chúng ta không thấy hết vấn đề. Một khi đã tìm lại được hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình, chúng ta có thể dễ dàng phá tung những giới hạn trần gian để thấy "hình ảnh Ðấng Tạo Hóa" nơi anh em. Tất cả giới hạn về chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, đẳng cấp trở thành vô nghĩa. Trong Ðức Kitô "không còn phải phân biệt Hi lạp hay Do thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ." (Cl 3:11) Thật là tuyệt vời ! Ðức Kitô đã trở thành mối giây liên kết tất cả loài người. Nhìn thấy đầu giây mối nhợ đó, ta sẽ thấy bản thân mình không còn là chủ thể tối cao và đối tượng phục vụ nữa. Trái lại, những người anh em nghèo khổ mới là chính Ðức Kitô cần phải được chia sẻ. Ta sẽ không "thu tích của cải cho mình" nữa, nhưng cho Ðức Kitô và các chi thể của Người. Phục vụ một đối tượng lớn lao như thế tức là đang "làm giàu trước mặt Thiên Chúa" vậy. Kiên nhẫn đầu tư theo lối này, ta sẽ "sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá." (Lc 12:33) Phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có thể kiếm được những túi tiền và kho tàng đó. Tóm lại, đó là một cuộc hi sinh vô bờ bến có khi mất cả mạng sống. Thế nhưng, phàm ai từ bỏ mọi sự "vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp." (Mt 19:29) Chính vì mối lợi lớn lao đó, chúng ta nên tự kiểm hằng ngày về mức độ từ bỏ của mình. Nếu không, chúng ta sẽ hụt hẫng khi giáp mặt với những thực tại thiên giới. THẾ GIỚI HÔM NAY. Bước hụt hẫng đó chính người phú hộ đã kinh nghiệm khi rơi xuống "âm phủ, ông ta ngước mắt lên thấy Lagiarô trong lòng tổ phụ." (Lc 16:23) Nơi trần thế, ông ngất ngưởng trên cao với những "lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình." (Lc 16:19) Ông chỉ lo "thu tích của cải cho mình" và hưởng thụ một mình. Người nghèo Ladarô không lọt vào mắt xanh của ông. Nhưng từ dưới âm phủ cũng ánh mắt đó ngước lên tìm một chút lòng thương xót từ nơi tổ phụ Abraham và Ladarô. Ngày nay trên thế giới biết bao nhiêu phú hộ đang sống phè phỡn trên 80% tài nguyên thế giới giữa một đại dương nghèo đói chỉ chiếm khoảng 20% của cải thế giới mà thôi. Giữa đại dương nghèo đói đó, đa số nhân loại không đủ cơm ăn áo mặc, không đủ thuốc chữa trị những bệnh nguy hiểm như liệt kháng, ung thư, đau tim v.v Họ là những người thấp cổ bé họng, bị gạt ra ngoài lề xã hội, bị đàn áp bất công. Họ không có tiếng nói. Bởi vậy, nhân dịp nhóm G8 họp Hội Nghị Thượng Ðỉnh tại Genova, Ðức Gioan Phaolô II đã kêu gọi : "Các Siêu cường, các Vị quyền hành trên thế giới . hãy nghĩ đến các nước nghèo, hãy lắng nghe tiếng kêu than của các người nghèo." (VietCatholic 28/7/2001) Hãy chấm dứt tình trạng "thu tích của cải cho mình." Bao lâu còn nghèo đói, thế giới không thể hòa bình. Thế giới không thiếu lương thực, nhưng thiếu những vòng tay mở rộng. Bất công tràn lan vì người giàu ôm chặt tài sản và chỉ lo thỏa mãn những nhu cầu giả tạo, mặc cho những người nghèo phấn đấu một mình với cơn nghèo đói, rách nát. Bằng chứng, " các vị lãnh đạo các Siêu Cường nhắc lại cam đoan dùng 0.7% lợi tức cũa mức sản xuất để dành cho việc cộng tác phát triển các dân tộc. Nhưng với thời gian qua đi, không một quốc gia ?ân nhân? nào đóng góp vào quĩ, trừ mấy nước miền Bắc Âu. Thậm chí, các Siêu Cường (Pháp, Anh, Ý, Canada) đã giảm bớt số viện trợ cho các quốc gia nghèo ở miền Nam Bán Cầu." (VietCatholic 28/7/2001) Ðúng là đánh trống bỏ dùi ! Mới đây tại Genova lại hứa viện trợ 1 tỉ 200 ngàn Mỹ kim cho Phi châu chũa trị bệnh liệt kháng và các chứng bệnh thông thường. Số tiền đó chỉ bằ?g ngân khoản Hoa Kỳ dành mỗi năm cho việc chế tạo hỏa tiễn chống hỏa tiễn mà thôi. (xc. VietCatholic 28/7/2001) Chẳng biết bao giờ mới thực hiện lời hứa đó. Các phú hộ vẫn chễm chệ trên những bàn tiệc thịnh soạn, không thèm thí những miếng bánh vụn cho người nghèo. Nếu ngày xưa người phú hộ sớm nhận ra sự liên đới và trách nhiệm đối với Ladarô, tình trạng không đến nỗi quá cách biệt sau cái chết như vậy. Thực ra, ông đã không hề đối xử bất công với người nghèo Ladarô. Ông không sai đầy tớ đánh đập hay xua chó cắn Ladarô. Thực tế, ông chỉ hưởng những của cải của ông, chứ không xâm phạm quyền lợi ai. Nhưng ông đã giữ một khoảng cách quá xa với Ladarô. Ông chủ trương "sống chết mặc bay". Tội ông ở chỗ đó ! Ngày nay, để xóa bỏ khoảng cách giữa giàu nghèo, không thể theo chủ trương "đấu tranh giai cấp". Nhưng cần phải kêu gọi tình liên đới nhân loại. Tình liên đới là một giá trị lớn lao trong tiến trình toàn cầu hóa. Không cảm thấy liên đới, người giàu không bao giờ thấy được bổn phận đối với người nghèo. Sở dĩ ?có liên đới với nhau, vì họ thuộc về một gia đình duy nhất. Theo ÐHY Sodano, "ơn gọi nguyên thủy của nhân loại là xây dựng một gia đình duy nhất." (VietCatholic 28/7/2001) Kitô giáo là một điển hình. Tất cả các Kitô hữu đích danh đều gắng sức xây dựng Giáo hội thành một gia đình, trong đó Thiên Chúa là Cha và mọi người đều là anh em với nhau. Chính vì thế, "Kitô giáo là một tôn giáo có tính toàn cầu," (ÐHY Sodano, VietCatholic 28/7/2001) bắt đầu từ tình liên đới giữa những người cùng chia sẻ một niềm tin và một tình yêu. Từ đó, người Kitô hữu sẽ nhận thấy trách nhiệm của mình đối với việc toàn cầu hóa tình liên đới. Ngày nay, nhân loại không còn lựa chọn nào khác. Liên đới hay là chết ! Thời gian cấp bách lắm rồi ! Trong công cuộc này, giáo dân là những đội quân tiền phong. Họ có nhiệm vụ phá tan những tảng băng giá trong lòng người và khơi dậy những ngọn lửa thương yêu, đoàn kết, liên đới. Khi cố gắng liên đới với anh em, chúng ta đang hoàn thành ơn gọi của mình. Chính ơn gọi này giúp chúng ta nhận ra địa vị cao cả của mình trong vũ trụ và giá trị đích thực của những thực tại trần thế. Ý thức này sẽ đẩy xa mọi đam mê ích kỷ và giúp con người tìm lại được chính mình. Nhưng muốn liên đới với anh em, chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ cái tôi. Liều thân vì anh em là liều mạng vì Thiên Chúa. Ðức Giêsu nhắn nhủ : "Ai liều mất mạng sống vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy." (Lc 9:24) Nhưng ai có thể đạt tới mức hi sinh lớn lao đó, nếu không phải là những người đang sống giữa những thực tại trần gian mà lòng vẫn "tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Ðức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3:1) Chỉ những người siêu thoát như thế mới có thể hiệp nhất tất cả trong Ðức Kitô. Nhờ sức mạnh Thánh Linh, giữa thế giới đầy xáo trộn và thù nghịch hôm nay, họ vẫn có thể làm chứng cho mọi người thấy : "chỉ có Ðức Kitô là tất cả và ở trong mọi người." (Cl 3:11) .Amen ÔNG PHÚ HỘ NGỐC (Lc 12, 13-21) Giacôbê Phạm Văn Phượng op Bài Tin Mừng kể lại : Một hôm Chúa Giêsu đang giảng dạy trong hội đường thì có một thanh niên lên tiếng xin Chúa giải quyết giúp vụ tranh chấp gia tài của anh em họ. Người Do Thái vẫn có thói quen đem trình mọi vấn đề rắc rối cho vị đạo trưởng như vậy. Chính luật Mô-sê cũng không phân biệt rõ luật hình, luật sự, luật đạo, luật đời hay luân lý. Cho nên, một vị đạo trưởng là phải “nghề”, phải “sành” mọi thứ luật để giải quyết cho dân. Trường hợp người thanh niên này, có lẽ anh đã tranh đấu đòi người anh trả lại quyền lợi một phần ba gia tài như luật định mà người anh đã tham lam ngốn hết tất cả, không chia chác gì cho ai, nên mới có chuyện. Nhưng Chúa Giêsu đã không can thiệp vào sự việc đó, Chúa muốn cho thấy ranh giới giữa các thứ luật. Vấn đề chia chác của cải không thuộc lãnh vực của Chúa, không thuộc sứ mệnh của Ngài mà thuộc về lãnh vực xã hội. Nhưng nhân dịp này Chúa dạy mọi người một bài học : đừng sống tham lam, đừng ích kỷ. Để dễ hiểu, Chúa đưa ra một dụ ngôn về một người giàu có kia, suốt đời cắm cúi lo thu tích hoa mầu, của cải, dù là cách lương thiện, nhưng đời sống lại là hưởng thụ ích kỷ, sản xuất hoa mầu được nhiều, nhưng thu cất hết vào kho lẫm, chỉ lo cho vinh thân phì da. Trước mặt Thiên Chúa, Tin Mừng nói, đó là kẻ ngốc, tức là kẻ dại dột. Dại dột ở chỗ ông ta chỉ để ý đến vật chất mà không chú ý đến linh hồn, chỉ để ý vào của cải đời này mà quên mất đời sau, giàu ở đời này nhưng nghèo ở đời sau thì ích gì ? đời này chỉ là tạm bợ, đời sau mới trường tồn. Kẻ giàu sụ kia đã chết bất ngờ, mất cả của lại mất cả linh hồn. Như vậy, có của không có nghĩa là có hạnh phúc. Hạnh phúc nước trời phải được mua sắm bằng của cải thiêng liêng là việc lành phúc đức, bác ái, chia sẻ. Sau đây chúng ta tìm hiểu ít điều về lòng tham : lòng tham là thế nào và tai hại ra sao ? Chúng ta phải có thái độ thế nào đối với của cải vật chất ? Chúng ta vẫn thường nghe nói : “Lòng tham vô đáy”, “tham thực cực thân”, “lòng tham là một cái túi thủng, mà những người sống nửa cuộc đời hay vướng mắc, bởi vì tuổi trẻ thì hay phung phí, còn tuổi già thì hay hà tiện”. Kẻ tham lam không bao giờ bằng lòng với số phận hiện có của mình, những gì họ có vẫn còn là ít, là nhỏ, là thiếu, cho nên, đạt được mục tiêu này, họ lại thấy có bao nhiêu điều khác phải với tới, họ không bao giờ lường đúng được giá trị thật của họ, họ luôn bị thúc đẩy phải đi kiếm thêm cho đầy túi, đầy bị hay đầy két sắt. Khi chúng ta tham lam, chúng ta sẽ mắc ngay phải một tính xấu là ghen ghét. Người khác có hơn chúng ta cái gì, chúng ta không chịu được, chúng ta thèm khát những thứ người ta có mà chúng ta chưa có. Từ chỗ thèm khát đến ganh tị ghen ghét, từ ghen ghét đến hận thù và tàn hại nhau. Kinh nghiệm đau thương cho thấy lòng tham lam là mối cực lòng nhất trong đời, nó không đem lại hạnh phúc cho ai cả. Có tiền có của thì lại lo lắng bảo vệ, lo lắng mất mát. Có tiền của tất nhiên sẽ xoay trở làm sao cho có sức mạnh, có uy quyền. Đã có mạnh lại muốn mạnh hơn, đã có quyền lại muốn có nhiều quyền hơn. Nếu mình có quyền, tất nhiên là bớt quyền của người khác, ít là hạn chế, giới hạn quyền lợi của người anh em. Nếu hạnh phúc đến trên căn bản như thế, thì hạnh phúc chỉ đến với một số người, và sẽ không bao giờ đến với một số người khác. Đàng khác, lòng tham còn tạo ra nhiều bất công xáo trộn, vì người tham sẽ tìm mọi cách để vơ vét của người khác, bất kể phương tiện tốt xấu, mọi phương tiện đều tốt cho lòng tham vô đáy, trong khi đó lại khép chặt lòng trước bất cứ ai, họ không yêu thương người khác, mà cũng chẳng yêu thương được chính mình, vì chính họ cũng phải ti tiện, dành dụm, không dám tiêu pha, chỉ mong sao cho có thật nhiều, bảo đảm cho đời mình được an toàn, được kéo dài. Và như vậy họ giết chết nhân đức phó thác vào Thiên Chúa quan phòng. Đối với họ, tiền của sẽ thay thế Chúa quan phòng cho họ, từ đó, ma quỷ sẽ chen vào, sẽ thổi phồng lòng tham lên nữa, và sẽ khống chế, bắt họ phải làm những tội ác khác nữa. Chúng ta thấy lòng tham thật nguy hiểm và tai hại, nó tạo ra ghen tương, đố kỵ, xung đột, mọi cuộc chiến tranh lớn nhỏ đều bắt đầu từ đó, mọi đau khổ cũng có thể bắt nguồn từ đó, cho nên, vấn đề là làm sao loại bỏ được lòng tham. Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng : lòng tham đã trở nên một thành phần của con người, ai cũng có lòng tham, không nhiều thì ít, do đó, loại bỏ được lòng tham không phải là dễ, tức là khó chứ không phải là không loại bỏ được. Chúng ta có thể loại bỏ được và chúng ta phải loại bỏ bằng cách ý thức rõ ràng về của cải vật chất, đó là lời Chúa dạy bảo hôm nay. Chúa nhắc nhở chúng ta phải luôn ý thức tính cách mong manh, tạm bợ, nay còn mai mất của mọi của cải trần gian, tất cả chỉ là phù vân, là mây khói, nếu chúng ta không biết hướng chúng lên cao, không biết dùng chúng để đạt đến mục đích sau cùng của mình. Biết bao người đã kinh nghiệm tính cách phù vân, tương đối của tiền bạc, danh vọng, hưởng thụ… và họ đã bộc lộ ra qua những câu văn, những lời thơ để nhắc nhở mọi người, như “Của phù vân không chân hay chạy, sớm hợp tối tan”, “Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào, vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín”, “Của trời trời lại lấy đi, giương hai mắt ếch làm chi được trời”, “Của thiên trả địa”, “Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”, “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”, “Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong buớc vào”. Tóm lại, một trong những vấn đề quan trọng và căn bản nhất của đời sống là chọn Chúa hay chọn vật chất, của cải ? Trên lý thuyết, dĩ nhiên ai cũng chọn Chúa, nhưng trong thực tế có thực sự như thế không ? Xin đề nghị một điều, đó là hãy làm việc thiện. Có tiền của nhiều hay ít, chúng ta hãy giàu lòng, một đàng sẽ giải phóng chúng ta khỏi tính tham lam, ích kỷ, đàng khác, lại tích lũy công phúc cho đời sau, nghĩa là sống bác ái, chia sẻ sẽ giúp chúng ta thấy mình hữu ích cho nhân quần xã hội, mà còn là một cách chúng ta ký thác công phúc vào ngân hàng trên trời. Amen. Mời cùng cầu nguyện với 3 phút Thánh vịnh đáp ca

Thứ Sáu, 30 tháng 7, 2010

Nghe đọc truyện "Ái Tình Miếu" của Hồ Biểu Chánh

Theo ông Hồ Văn Kỳ Thoại, cháu đích tôn của tác giả thì truyện „Ái tình miếu“ được phỏng theo chuyện có thật của một người láng giềng, lúc ông sống ở Bến Súc, vùng đồn điền cao su Bến Cát.



Phúc đang học bên Pháp, được tin cha qua đời nên bỏ học trở về nhà để giúp đỡ mẹ. Trong thời gian ở Pháp cha mẹ Phúc có hứa hôn cho Phúc với Hạnh, con gái của một chủ đồn điền cao su. Khi về nước Phúc đến thăm viếng vị hôn thê của mình. Qua sự gặp gỡ đó Phúc yêu Hạnh và dự định sẽ cưới Hạnh làm vợ.

Một thời gian sau gia đình Phúc được tin cô Hạnh bội hôn, lấy một người chồng có địa vị. Phúc thất tình nên thù oán tất cả đàn bà con gái và chỉ lo làm vườn rẫy để quên mối tình cũ.

Bạn của Phúc là Trường biết được tâm bịnh của bạn mình nên nhờ vợ là cô Mỹ và bạn thân của vợ là cô Lý giúp mình tìm cách làm cho Phúc yêu đời trở lại. Ba người sắp đặt một kế hoặch để giúp đỡ Phúc. Kế hoạch của họ có đưa tới thành công hay không ?

Mời bạn xem truyện online tại đây, xin mời tải về tại đây

Mời nghe audio truyện theo file MP3: Ai Tinh Mieu Ho Bieu Chanh.mp3




Nghe đọc truyện theo YouTube tại đây



Du lịch đảo Corse, thiên đường miền ôn đới

Mở đầu loạt bài "Mùa hè rộn rã", RFI đưa các bạn đến thăm đảo Corse ở miền nam nước Pháp. Các bãi tắm trên hòn đảo này nổi tiếng đẹp nhất vùng Địa Trung Hải. Solenzara được mệnh danh là Hạt ngọc trai bờ biển xà cừ. Còn Bonifacio là một Viện bảo tàng lộ thiên, ngự trị trên biển cả. Bonifacio được các tạp chí du lịch hạng sang xếp vào danh sách 10 thành phố có địa thế độc đáo nhất thế giới (DR) Mời nghe bài viết trên RFI Có những địa danh thơ mộng đến nổi, một khi mắt ta đã nhìn thấy rồi, thì chỉ cần đặt bút là viết thành bài thơ. Capri hay Syracuse ở Ý, đảo Corfou ở Hy Lạp từng gợi hứng cho nhiều tác giả. Đảo Corse ở miền Nam nước Pháp cũng vậy. Không phải ngẫu nhiên mà nơi này được mệnh danh là L’Ile de la Beauté - Hòn đảo xinh đẹp. Nằm trên biển Địa Trung Hải, đảo Corse tiếng địa phương gọi là Corsica, nổi tiếng từ lâu đời nhờ vẻ đẹp tự nhiên, hoang sơ thầm kín, không huyên náo như Ibiza, không khoe khoang như Mykonos. Từ thủ đô Paris đáp máy bay, du khách mất khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ để đến các thành phố Bastia hay Calvi ở phía Bắc, Ajaccio hay Corte ở miền Trung hải đảo. Nhưng những phong cảnh đẹp nhất vẫn là các bãi tắm nằm ở miền Nam (Corse du Sud), trong đó có thành phố Solenzara, được mô tả như Hạt ngọc trai của Bờ biển Xà cừ (Côte des Nacres). Solenzara : từ hồ trên núi đến vịnh nước biển Gọi là thành phố, nhưng thật ra Solenzara chỉ lớn bằng một thị trấn, mật độ dân cư không cao nhưng lại thu hút đông đảo du khách trong những tháng hè. Khi xưa là một làng chài, sống nhờ nghề đánh cá, nuôi hải sản, Solenzara phát triển nhờ có khoảng 20 bãi tắm tự nhiên nằm dọc trên 5 cây số. Bờ biển ở đây có làn nước trong suốt, xanh mát, cát ngà trắng mịn, mềm mại như nhung. Nhưng Solenzara có một đặc điểm mà nơi khác không có. Đó là nhánh sông bắt nguồn từ miền núi đổ ra biển. Du khách nào chịu khó đi bộ hay đạp xe vài cây số từ miền duyên hải vào bên trong đất liền, sẽ thấy những hồ nước suối tự nhiên, tuy không sâu nhưng trong sạch và mát rượi, do nước ngọt tan từ băng tuyết. Nhờ vậy mà Solenzara lôi cuốn nhiều đối tượng du khách, vừa là nơi hẹn hò của những người thích tắm biển phơi nắng, nghỉ hè thì phải nằm yên đọc sách nghe nhạc chứ tội gì mà nhọc sức, vừa là điểm đến của những ai thích đi bộ, leo núi, muốn tận hưởng vị muối mặn trong gió biển, làn nước ngọt khi ngâm mình vào suối hồ trên núi. Khuyết điểm duy nhất của Solenzara có lẽ nằm trong giá sinh hoạt. Đành rằng Corse là một hải đảo, và như vậy phải nhập nhiều hàng tiêu dùng từ đất liền, nhưng giá cả ở đây lại cao hơn nhiều so với các nơi khác, từ tiền phòng khách sạn cho đến những bữa ăn. Thị trấn này có thể hãnh diện sau khi xây được một bến cảng dành cho du thuyền, nhưng lượng khách hạng sang lại khiến cho giá cả tăng vọt. Du khách nào không có nhiều tiền thì chỉ còn cách cắm lều ngủ trại, hay thuê phòng ở nhà dân địa phương, giá trung bình là 65 euros một phòng, mỗi bữa ăn tính khoảng 12 euros. Dù gì đi nữa, Solenzara có những phong cảnh rất hữu tình nhờ địa thế lý tưởng : lưng phố dựa vào sườn núi, tầm mắt nhìn ra biển cả mênh mông. Mỗi khi mặt trời mọc, ánh nắng ban mai rải lên triền đồi, dốc núi một màu thủy ngân đẹp khó tả. Nhìn từ trên cao xuống các bãi tắm, bình minh rắc ánh bạch kim lên mặt biển, tùy theo độ nắng các bờ cát trắng lại lung linh lấp lánh ánh ngà pha sữa. Biệt danh Bờ biển Xà cừ có lẽ cũng không quá đáng, tiếng tăm của Solenzara đi vòng quanh thế giới, khi được đặt thành bài ca, dịch sang nhiều thứ tiếng kể cả tiếng Ý, tiếng Nhật và tiếng Việt (bài Solenzara do Phạm Duy đặt lời Việt thành Nắng Xuân). Bonifacio : viện bảo tàng lộ thiên Từ Solenzara đi xe hơi khoảng nửa tiếng về mũi cực nam đảo Corse, du khách sẽ thật sự choáng ngợp khi lần đầu tiên chứng kiến tận mắt thành phố Bonifacio. Được tạp chí du lịch hạng sang Condé Nast Traveller xếp vào danh sách 10 thành phố có địa thế độc đáo nhất thế giới, Bonifacio còn được mệnh danh là một viện bảo tàng lộ thiên, ngự trị trên biển. Thành phố cổ có lối kiến trúc hài hòa, phát triển từ thế kỷ 14 trở đi, khi còn là bến cảng giao thương giữa Marseille của Pháp và các nhà hàng hải đến từ vùng Sardaigne (Sardegna) và Gênes (Genova) của Ý. Bước vào thành phố, du khách có cảm tưởng lạc vào mê cung. Mọi nẻo đường đều quanh co khúc khuỷu, không tuân theo trật tự nhất định, vì ngày xưa, khi thành phố này bị tấn công, cư dân có thể thoát chạy dễ dàng. Có lẽ vì thế mà từ lâu Bonifacio nổi tiếng nhờ bức thành trì rắn chắc xây trên đất liền, ngăn chặn mọi nguy cơ xâm lăng từ phía biển. Với thời gian, thành trì được trùng tu, tô điểm nên tạo cho địa danh này một vẻ đẹp khó tả. Đáp du thuyền ra khơi rồi ngoảnh nhìn về đất liền, bạn sẽ thấy một thành phố cổ toạ lạc trên một khối đá vôi, cao gần 100 thước so với mực nước biển. Phía dưới của khối đá vôi bị sóng vỗ quanh năm, nước biển ăn mòn nên thành phố này càng có vẽ bấp bênh gập ghềnh. Khi trời trở gió, biển động sóng gầm, mưa rơi nặng hạt, du khách lại có cảm tưởng thành phố này như thể sắp rơi xuống biển. Một cảm giác cheo leo, chênh vênh mà cư dân địa phương dệt thành huyền thoại : Bonifacio sinh từ một nụ hôn say đắm của sơn tiên trên môi vị hải thần. Do khao khát nụ hôn, nên thần biển mới vỗ sóng bốn mùa, quấn quýt bên người yêu, muôn thuở không muốn xa rời. Các tảng đá vôi mọc giữa biển làm cho du khách thêm xao xuyến bồi hồi, ghi vào máy chụp ảnh những bức hình tuyệt đẹp, nhưng chỉ khi nào được nhìn tận mắt, ngụp lặn trong không gian ba chiều thì ta mới cảm nhận được tất cả niềm hạnh phúc mong manh, bấp bênh đến nổi không gì níu kéo được. Nấc thang lên thiên đường Nếu bạn muốn viếng thăm Bonifacio, thì nên đi thăm ngoài hai tháng cao điểm mùa hè (7 và 8). Thượng tuần tháng 5, tháng 6 và cuối tháng 9 là lý tưởng nhất. Vào lúc đó, giá cả sẽ mềm hơn, thành phố cũng tĩnh lặng, người đi lại khá thưa thớt, không có nhiều bóng dáng của xe cộ. Những con đường nhỏ ngoằn nghèo lát đá, chạy quanh những tòa nhà cổ kính, cứ đi vài trăm thước là dẫn tới một ngã năm ngã bẩy, với bồn nước nhỏ ở giữa, xunh quanh là các hàng quán, cà phê viã hè lợp bóng cây. Các món ăn ở đây không cầu kỳ, cao sang nhưng lại đậm đà hương vị của các đặc sản địa phương. Thời xưa, đảo Corse không phải là vùng đất trù phú, phì nhiêu nên rất nhiều món ăn chính gốc là của người dân miền núi. Các món thịt nguội, hun khói hay ngâm muối ngon không kém gì món jambon Parma của người Ý. Người Corse còn nổi tiếng nhờ nghệ thuật làm fromage bằng sữa dê : đậm mùi thì có loại Niulincu (của làng Niolu) và Calinzanincu (Calenzana), nhẹ hơn thì có Sartinese (làng Sartène), Bastelicacciu (Bastelica), và Venachese (Venaco). Các món fromage này thường được đút lò với khoanh trái táo chẻ mỏng, hay được nhồi với cà tím nướng dầu ôliu. Độc đáo hơn nữa là món hoa mướp non, ướp với một chút gia vị rồi lăn bột chiên bơ. Vắt thêm một chút chanh tươi, món này còn ngon hơn nhiều món tempura của người Nhật. Sống trên đảo nhưng dân Corse lại không ăn nhiều cá. Truyền thống sơn cước khiến cho cư dân địa phương làm nhiều món để cất giữ. Điều đó có thể làm nản lòng du khách nào muốn ăn thịt tươi. Nhưng đổi lại người Corse nổi tiếng làm mứt trái cây, hoa quả. Lạ nhất là món mứt dưa hấu trộn với một chút vỏ chanh hay mứt hoa cà ướp mùi bergamotte. Nổi tiếng là kiêu hãnh tự hào, người dân địa phương chưa dám gọi đảo Corse là một trong những địa điểm du lịch đẹp nhất thế giới, nhưng họ vẫn nói đùa với nhau rằng : hòn đảo xinh xắn này là nấc thang cuối cùng dẫn ta đi vào thiên đường miền ôn đới. Tuấn Thảo (RFI)

Bản tin thời sự tổng hợp ngày 29/07/2010

Mời các bạn theo dõi bản tin thời sự tổng hợp trong nước và quốc tế ngày 29/07/2010 của Đài truyền hình kỹ thuật số VTC.

Thứ Năm, 29 tháng 7, 2010

Phim Nhật Thực và lời bình về bộ phim của một Linh Mục



Tựa đề phim “Nhật thực” (Eclipse) có một diễn giải từ chủ đề. Đó là một hiện tượng thiên nhiên, Nhật thực xảy ra khi Mặt Trăng đi qua giữa Trái Đất và Mặt Trời và che khuất hoàn toàn hay một phần Mặt Trời khi quan sát từ Trái Đất. Tính biểu lộ của nhật thực nói đến giao thoa giữa vật chất và thiêng liêng. Con người trong xã hội tiêu thụ bị vật chất che khuất mất thiêng liêng và con người cảm thấy mình yếu nhược, cầu cứu đến sức mạnh của ma quái. Sau đây là một vài nhận định của L.m Giuse Hoàng Kim Toan

Ma cà rồng và người sói. 

Để hấp dẫn câu chuyện, bộ phim đã nhập cả hai chủ đề người sói và ma cà rồng, là hai đề tài thu hút nhiều tính hiếu kỳ của con người. Trong truyền thuyết ma cà rồng không thể sống chung với sói, sói là khắc tinh của ma cà rồng.

Câu chuyện “Nhật thực”, Bella Swan yêu Edward Cullen (ma cà rồng) nhưng lại thân thiết với người sói Jacob Black. Ma cà rồng, nguồn gốc theo truyền thyết Kabbale, nó tên là Lilith một phụ nữ có trước Eva và cùng lúc với Adam, được tạo ra từ đất. Lilith tranh giành quyền lực với Adam cho rằng cả hai cùng được tạo ra từ đất nền quyền lực như nhau. Cả hai cãi lộn và Lilith kêu tên Chúa rồi bỏ đi, từ đó Lilith luôn làm những việc quái ác chống lại hôn nhân và gia đình. Có lẽ biểu tượng này đang nói lên thực trạng của gia đình hôm nay, xem hôn nhân như một ràng buộc nhẫn tâm, trách nhiệm với con cái đang trở thành gánh nặng, tình yêu nam nữ là một thứ xa xỉ. Lilith chống lại khôn mẫu gia đình hạnh phúc và dẫn đến thực tại đau thương, Lilith đôi khi còn được gọi là mẹ của các ma cà rồng.

Cơn sốt về ma cà rồng bị thổi lên từ thế kỷ 17 và 18, gây sợ hãi tại Tây – Âu, nhà văn Ireland Bram Stoker hứng thú viết ra tiểu thuyết Dracula (1897). Và từ ấy tình tiết uống máu người để sống cứ được nhân lên cùng Dracula. Việc uống máu người biểu lộ một thú tính từ xưa đến nay, chiếm lấy sự sống của người khác để nuôi sống mình, biểu lộ cuộc tranh giành, cướp lấy, mạnh được yếu thua.

Người sói, liên quan mặt trăng (The Moon), mỗi khi trăng tròn người chuyển hóa thành sói, khi là sói xám nguyên hình, khi là mang hình người khuôn mặt sói. Nói đến tình biểu tượng của sói, người ta nghĩ ngay đến sức mạnh điên cuồng cắn xé, tranh giành quyền sống, đấu tranh sinh tồn.

Cả hai biểu tượng Ma cà rồng và Sói, như mặt trời với mặt trăng; khi thần linh đã chết bởi tay con người, con người chỉ còn hai thế lực tranh giành sống mái, để tồn tại và lưu truyền nòi giống. Khi giết chết Thiên Chúa con người đi vào chung cục của đam mê dục vọng và dẫn nhau tới tiêu diệt sau cuộc tranh giành. Một xã hội không có Thiên Chúa dẫn đến một xã hội tranh giành, cướp lấy, chiếm đoạt, tham lam, đê tiện… để giết chết con người bằng thú tính của kẻ gian ác.

Thể hiện đề tài tính dục: 

Khi nguyên lý của tình yêu đích thực không còn tồn tại. Người sói, mang lấy bản chất đam mê dục tính của mình, như trong văn hóa cổ, sói là tổ phụ huyền thoại, biểu tượng sức mạnh tính dục. Tính dục ngày nay bị đẩy vào ngõ cụt của sự sống khi người ta cổ võ cho trần tục với tính chất khiêu dâm và những dụng cụ hưởng lạc đến thỏa mãn thú tính. Người sói mang tính hoang dâm tràn trề sinh lực, kẻ quyến rũ, chiếm đoạt tình yêu của người khác qua những khát vọng vụng trộm. Trong tranh hình thời trung cổ châu Âu, nam phù thủy thường hay biến đổi thành sói đực để đến các lễ hội sabat. Nữ phù thủy cũng dịp ấy đeo dây tua bằng da sói. Sói đực thường đồng nghĩa với man dã và sói cái với đồi trụy.

Ma cà rồng: Như tên đã kể về Lilith, một người đàn bà bị bỏ rơi bởi một người đàn bà khác. Lilith mang đầy lòng hận thù, ghen tuông, kẻ chuyên đi phá hoại tình yêu chân chính. Kẻ điên cuồng trong thú tính của mình, sát hại trẻ thơ. Trong cuốn “L’ art magique” (Ouvrage collectif, Paris, 1957, page 199) diễn tả: “Lilith là nữ thần ban đêm của đồng nội, rắp tâm quyến rũ Adam để sinh ra những quái vật trong sa mạc. Lilith là kẻ hút máu, có đôi mắt có thể tháo ra lắp vào, mang đến cho loài người thứ sữa độc hại, được so sánh với vầng trăng đen của vô thức, với những động năng tăm tối, chuyên ngấu nghiến thịt trẻ sơ sinh, tàn ác”. Biểu hiện ác thú nhất trong xã hội “văn minh sự chết” là không tình yêu, giết hại rất nhiều con trẻ từ trong bụng mẹ, kẻ giết chết các thai nhi để thỏa mãn những dục tình đen tối xui khiến.  

Trình bày và thu hút. 

Văn minh sự chết, thực sự không phơi bày cách hiển nhiên như thế, nó được vỏ bọc bằng những khung cảnh và những câu thơ trữ tình: (Nhật thực, bắt đầu bằng cảnh Bella và Edward (do Kristen Stewart và Robert Pattinson thủ vai) đang âu yếm nồng nàn - dù hết sức trong sáng - trên một đồng cỏ đầy hoa dại. Trời chỉ đủ nắng để làm nổi bật làn da lấp lánh giá lạnh của Edward, nhưng không đủ rực rỡ để xóa đi tâm trạng ưu tư của anh. Bella thủ thỉ đọc bài thơ Lửa và Băng của Robert Frost viết về ngày tận thế. "Từ những đam mê tôi từng nếm trải," cô ngân nga, "Tôi thích những ai biết yêu ngọn lửa.") (A.O. Scott, trích Tuần Việt Nam, 5 – 7 - 2010). Ngọn lửa và băng giá chỉ ra hai lãnh vực quá khích và trầm cảm.

Trong một thế giới khi tình yêu hôn nhân bị chống phá cách kịch liệt, sự sống của con người bị xem thường quá đáng, người ta rơi vào hai trạng thái: Tự do tính dục, ủng hộ phá thai, đồng tính hoặc tự chọn cuộc sống cô lập, riêng biệt, không thích lập gia đình.

Phim “Nhật thực” cũng được trình bày với âm thanh, hình ảnh đặc sắc bằng công nghệ IMAX. Âm thanh, hình ảnh, để thỏa mãn giác quan của con người. Phim ảnh ngày nay cho thấy, kích thích giác quan để dẫn tới những ảo giác của đời sống, không còn muốn là con người mà chỉ muốn sống như thú hoặc những sinh vật xa lạ với con người (Legion; Avatar…). Thế giới loài người bị tranh giành giữa những lực lượng của cái ác, hoặc chọn trở thành ma cà rồng hoặc chọn là người sói. Cốt truyện không có lựa chọn thứ ba là tiếp tục làm người.

Ảnh hưởng tục hóa ghê gớm nhất của văn minh sự chết là giết chết Thiên Chúa trong lòng người, từ đó con người không còn nhân tính, không còn muốn sống là người. Dĩ nhiên, đây chỉ là những phân tích từ những huyền thoại trong bộ phim đang chiếu trên các màn ảnh. Những xu thế của con người khi giết chết Thiên Chúa, con người bị gậm nhấm bởi hiện tượng nhật thực ngay trong lòng mình. Mất đi Ánh Sáng đích thực dẫn lối, con người chỉ còn tranh giành sinh tồn trong bóng đêm.  

Mời các bạn cùng theo dõi bộ phim tại đây

Bản tin thời sự tổng hợp ngày 28/07/2010

Mời các bạn theo dõi bản tin thời sự tổng hợp trong nước và quốc tế ngày 28/07/2010 của Đài truyền hình kỹ thuật số VTC.

Thứ Tư, 28 tháng 7, 2010

Ti Vi Đức Mẹ - Tin Giáo Hội Hoàn Vũ ngày 27/07/2010

Mời các bạn theo dõi Chương Trình Ti Vi Đức Mẹ , mục Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ ngày 27/07/2010. Bạn có thể xem lại toàn bộ các Chương trình Ti vi Ánh Sáng Tin Mừng ở tại đây

Cuộc trắc nghiệm sức kháng cự các ngân hàng châu Âu

Ủy ban kiểm soát các hoạt động ngân hàng của châu Âu, CEBS vừa công bố kết quả một cuộc trắc nghiệm thực hiện trên 91 ngân hàng lớn nhất trong toàn bộ 27 nước Liên Hiệp Châu Âu trước khả năng đối phó với khủng hoảng kinh tế và tài chính. 4 ngân hàng Pháp tham gia vào cuộc trắc nghiệm (Reuters) Mời nghe bài viết trên đài RFI Theo kết quả, chỉ có 7 trên tổng số 91 ngân hàng tham dự “stress test” nói trên không vượt qua được các quy định đề ra. 91 ngân hàng tham dự xét nghiệm stress năm nay đại diện cho 65 % các hoạt động tài chính ngân hàng của Liên Hiệp Châu Âu. Cuộc trắc nghiệm này nhằm xem xét khản tài sản tịnh trên thực tế của các ngân hàng có đủ sức để đương đầu với một cơn bão tài chính còn nghiêm trọng hơn so với vụ phá sản của Lehman Brothers hồi tháng 9/2008 hay không. Mục tiêu sau cùng của Ủy ban CEBS là để trấn an thị trường vốn rất dè dặt trước rủi ro các ngân hàng châu Âu mất khả năng thanh toán. Tạp chí hôm nay xin trở lại với phương pháp thực hiện test và tìm hiểu về mục cuộc trắc nghiệm để ra. Cũng xin nói thêm đây là lần thứ nhì ngành ngân hàng Liên Hiệp Châu Âu tiến hành một cuộc thử nghiệm tương tự thể theo mô hình đã được áp dụng tại Hoa Kỳ để giám sát vốn của giới ngân hàng sau cơn chấn động tài chính mùa thu 2008. Một ngân hàng được coi là đủ sức chống chọi với khó khăn nếu như tỷ lệ vốn cơ bản -còn được gọi là vốn cấp 1- đạt mức tối thiểu là 6% so với tổng số vốn được huy động chính thức. Theo giới quan sát đe dọa mất khả năng thanh toán của Hy Lạp, và một vài mắt xích yếu kém nhất trong khối euro đã đè nặng lên cuộc trắc nghiệm năm nay. Chỉ số Stoxx 600 của riêng ngành ngân hàng châu Âu trong sáu tháng đầu 2010 đã sụt giá mất 5%. Do vậy hơn bao giờ hết việc minh bạch hóa về các hoạt động ngân hàng, về khả năng các cơ quan tài chính châu Âu kháng cự trước đe dọa khủng hoảng là việc làm cần thiết. Stress test là gì và được thực hiện với mục tiêu gì ? Trả lời đài RFI, gGiáo sư tài chính Thierry Foucault thuộc trường Cao đẳng Thương mại HEC của Pháp phân tích : « Mục tiêu của cuộc trắc n ghiệm nhằm rà soát lại khả năng của mỗi ngân hàng để đối phó với những tình huống khó khăn. Những tình huống khó khăn đó là gì ? Đó là những trường hợp như là vốn của ngân hàng sụt giảm vì nợ xấu, hay ngân hàng bị thiếu tiền mặt như kịch bản đã từng xảy ra vào mùa thu 2008. Ngoài ra thì còn phải tính đến trường hợp như là do khủng hoảng kinh tế, tổng sản phẩm nội địa giảm vài điểm, thất nghiệp tăng cao, các con nợ của ngân hàng mất khả năng thanh toán nợ … và câu hỏi đặt ra là liệu trong tình huống ngặt nghèo như vậy thì ngân hàng này có bị đe dọa hay không ? » Về câu hỏi cuộc trắc nghiệm này có cần thiết hay không hầu hết các chuyên gia đều trả lời là có, cho dù kết quả tùy thuộc vào mức độ thực tế của các kịch bản, vào các chỉ số như tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp hay lạm phát … được sử dụng để thực hiện cuộc trắc nghiệm. Về điểm này giáo sư Thierry Foucault giảng dậy tại Trường Cao đẳng Thương mại Pháp phân tích : « Đây là một đề tài gây nhiều tranh cãi. Tại Hoa Kỳ có nhiều quan điểm cho rằng stress test là yếu tố quyết định để lấy lại uy tín của giới đầu tư và đây cũng là luận điểm được Ngân hàng Trung ương châu Âu nêu lên khi tiến hành cuộc trắc nghiệm để đo lường độ vững chắc của các cơ quan tài chính trong khu vực. Tuy nhiên cũng có những tiếng nói cho rằng những cuộc trắc nghiệm như vậy nặng về hình thức nhiều hơn. Theo tôi, thử thách vể khả năng thanh toán của một ngân hàng không phải là một việc làm vô bổ. Đương nhiên, nếu một ngân hàng không có khả năng huy động vốn, thì đó sẽ là một tín hiệu không hay. Đừng quên rằng « stress test » trước hết là cuộc trắc nghiệm về khả năng kháng cự trước các cú sốc của nền kinh tế vĩ mô. Do vậy đây là một phương tiện để trấn an thị trường tài chính, hiện nay còn đang hoài nghi về thực chất của nền kinh tế chung trong khối euro. Giới đầu tư lo ngại về rủi ro mất khả năng thanh toán của một vài quốc gia như Tây Ban Nha. Khi mà mọi người thiếu thông tin thì họ chần chừ trong việc bỏ tiền ra đầu tư ». Về phần mình Eric Dor giám đốc nghiên cứu tài chính IESEG, thuộc trường quản trị kinh doanh Lille-Paris tiếc là Ủy ban CEBS của châu Âu đã không chú trọng nhiều vào giả thuyết một ngân hàng có thể bị suy yếu trong trường hợp một quốc gia mất khả năng thanh toán. Việc lơ là với giả thuyết này, theo ông Eric Dor là một tín hiệu không hay vì người ta có thể hiểu rằng châu Âu gián tiếp công nhận là kịch bản đen tối này có thể xảy tới. Đây cũng có thể là lý do để nhiều nhà quan sát tỏ ra nghi ngờ về tính trung thực và thực tế của cuộc trắc nghiệm vừa hoàn tất. Một yếu tố khác gây nghi ngờ đó là trên 91 ngân hàng tham gia cuộc thử nghiệm, chỉ có 7 cơ quan tài chính bị coi là không đủ sức đối phó với khủng hoảng. Một nhà phân tích của ngân hàng Nhật Bản Nomura cho rằng, ngân hàng châu Âu may mắn đã “gặp đề thi quá dễ dàng” do ba kịch bản được chọn không mang tính bó buộc quá đáng. Nội dung cuộc trắc nghiệm Thử nghiệm stress đối với ngân hàng châu Âu đưa ra ba kịch bản như sau : thứ nhất là GDP trong khu vực euro co cụm lại trong hai năm liên tiếp ở mức trừ 0,2 và 0,6% làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Thứ hai, ủy ban ngân hàng châu Âu CEBS căn cứ trên giả thuyết trị giá công trái phiếu của nhiều quốc gia bị đe dọa mất khả năng thanh toán đúng thời hạn bị giảm rất nhẹ so với các con số đã được các chuyên gia nêu lên trước đây (chẳng hạn như là giảm khoảng 16- 17%, đối với công trái phiếu của Hy Lạp, tức là thấp hơn nhiều so với dự phóng từ 30% đến 40% như đã đưa ra). Kịch bản thứ ba là lạm phát gia tăng. Căn cứ trên các yếu tố vừa nêu, CEBS đi đến kết luận là hầu hết các ngân hàng châu Âu đã vượt qua được cuộc thử thách lần này, ngoại trừ tập đoàn tài chính của Đức Hypo Real Estate, 5 quỹ tiết kiệm của Tây Ban Nha và một ngân hàng của Hy Lạp. Bốn ngân hàng lớn của Pháp là BNP Parisbas, Société Générale, Crédit Agricole và BPCE dễ dàng vượt qua cuộc trắc nghiệm, với tỷ lệ vốn cấp 1 là 9,3%, cao hơn đến ba điểm so với mức quy định. Nói cách khác, bốn ngân hang này được xếp vào hạng có đủ vốn vững chắc để đối phó với mọi tình huống. Trên tổng số 91 ngân hàng tham dự cuojc trắc gnheiejm vừa qua, có đến 64 cơ quan tài chính đủ sưc kháng cự với khủng hoảng, vqf điều đó cũng có nghĩa là 64 ngân hàng này không gặp khó khăn trong trường hợp họ cần huy động thêm vốn. Theo thẩm định của ủy ban CEBS thì 7 ngân hàng tham dự stress test cần thêm khoảng 3 tỷ rưỡi tiền vốn, trong khi đó các chuyên gia cho rằng khoản vốn cần được huy động thêm có tể lên tới 90 tỷ euro. Bối cảnh thực hiện stress test 2010 Vào tháng 9 năm ngoái, chính phủ của đảng Xã hội Hy Lạp vừa lên cầm quyên gióng lên hồi chuông báo động về mức thâm thủng ngân sách nhà nước của Athènes : mức này lên tới gần 13% thay vì 3% như quy định đặt ra cho các nước tham gia đồng euro. Liền sau đó, cơ quan thẩm định rủi ro, Standard &Poors hạ điểm tín nhiệm của Hy Lạp và tỏ ra nghi ngờ về khả năng thanh toán nợ của nhà nước trong lúc nợ công của Hy Lạp lên tới 300 tỷ euro. Chính quyền mới của thủ tướng Papandrous rơi vào thế khó xử và đã phải đi vay với lãi suất cao hơn thị trường để thanh toán các khoản nợ đến hạn kỳ. Đây là điểm khởi đầu của cái được gọi là khủng hoảng Hy Lạp. Nguy hiểm hơn nữa là khủng hoảng tại quê hương của Socrate đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng niềm tin ở nhiều cấp : - Thứ nhất, Hy Lạp không phải là một trường hợp riêng lẻ có mức nợ chồng chất. Nợ của Lạp không thấm vào đâu so với nhiều nền kinh tế nặng ký hơn trong khối euro như Tây Ban Nha hay Ý. - Thứ hai là với khủng hoảng Hy Lạp người ta phát hiện ra là nhiều tập đoàn tài chính châu Âu đã cho Hy Lạp, dưới dạng công trái phiếu hay bảo hiểm nhân thọ … Do vậy nếu quốc gia này vị vỡ nợ thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các ngân hàng của nhiều nước thanh viên khác trong khu vực. Điều mà các nhà đầu tư cần biết là nếu như một quốc gia trong khối euro ví dụ như Tây Ban Nha hay Hy Lạp mất khả năng thanh toán, thì điều đó có đe dọa đến sự sống còn của một ngân hàng như Société Générale của Pháp hay không. Nói cách khách, trên tổng số vốn hoạt động của Société Générale có bao nhiêu phần trăm là vốn dưới dạng nợ khó đòi hay dưới dạng mà giới trong ngành gọi là những « sản phẩm tài chính mang tính rủi ro cao » Nếu tỉ lệ vốn cấp 1 so với tổng số vốn chính thức được huy động của Société Générale có cao (tức là trên 6%) thì các ngân hàng khác cũng như giới đầu tư mới yên tâm cho tập đoàn tài chính này vay mượn. Tỷ lệ nói trên có cao thì khả năng huy động thêm vốn của Société Générale mới được mạnh. Trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008/2009, khi đó do cac ngân hàng không biết rõ về « sức kháng cự » của lẫn nhau nên hết sức dè chừng không dám cho nhau vay. Chính vì vậy mà nhiều ngân hàng của Mỹ cũng như châu Âu lâm vào cảnh thiếu tiền mặt và gây thêm khó khăn cho khu vực sản xuất, tư nhân … Chính vì muốn kịch bản đen tối này không tái diễn, mà Liên Hiệp Châu Âu đã theo gót Hoa Kỳ từ năm ngoái, cho thực hiện cuộc thử nghiệm về khả năng kháng cự của các tập đoàn ngân hàng. Về điểm này, giáo sư tài chính thuộc trường cao đẳng thương Mại HEC của Pháp, ông Thierry Foucault coi cuộc thử nghiệm về tính căng thẳng của của các ngân hàn châu Âu là cú hích cho các hoạt độgn tài chính : « Cuộc trắc nghiệm này cho phép các ngân hàng có thêm thông tin của lẫn nhau, và có như vậy họ mới mạnh dạn cho nhau vay. Lo ngại của giới đầu tư là gì ? Họ sọ rằng nợ nhà nước chiếm một tỷ trọng quá lớn trong khoản vốn và trong tổng số nợ của một ngân hàng. Nếu tỷ trọgn này quá lớn, thì trong trường hợp một nhà nước mất khả năng thanh toán sẽ đe dọa trực tiếp đến sự sống còn của ngân hàng đó. Khi có được thông tin chính xác hơn về trọng lượng mức nợ của nhà nước trên tổng số vốn của một ngân hàng, thì các ngân hàng khác cũng yên tâm hơn để cho cơ quan tài chính này vay mượn ». Đành rằng giới tài chính đã hồi hộp chờ đợi kết quả cuộc trắc nghiệm về khả năng chịu đựng của các ngân hàng châu Âu, nhưng kết luận khá khả quan nói trên cũng đang làm nhiều người nghi ngờ về tính thục tế của stress test nhất là trong bối cảnh nhiều ngân hàng, đứng đầu là 6 ngân hàng của Đức đã im lặng, không công bố thông tin về khoản tín dụng mà họ đã cấp cho các chính phủ trong khối euro vay. Trong khi đó, nợ công mà ngân hàng Postbank của Đức cho chính phủ Bồ Đào Nha vay mượn có thể lên tới 50 triệu euro, khoản tín dụng này đối với chính phủ ý là 4,6 tỷ và đối với chính quyền Tây Ban Nha là hơn 1,2 tỷ euro. Thanh Hà (RFI)

Bản tin thời sự tổng hợp ngày 27/07/2010

Mời các bạn theo dõi bản tin thời sự tổng hợp trong nước và quốc tế ngày 27/07/2010 của Đài truyền hình kỹ thuật số VTC.

Môi giới hôn nhân lén lút : nguyên nhân rủi ro cho các cô dâu Việt

Hôm 8/7 vừa qua, vụ cô dâu Thạch Thị Hồng Ngọc bị chồng sát hại chỉ sau một tuần đặt chân về nhà chồng ở Hàn Quốc đã làm rúng động dư luận ở Việt Nam cũng như ở Hàn Quốc. Có điều đáng buồn đó không phải là bi kịch duy nhất của các cô dâu Việt đã tìm đường thoát cảnh nghèo khó bằng cách kết hôn với người nước ngoài. Tranh đấu bảo vệ quyền lợi cho các cô dâu và công nhân Việt Nam tại Đài Bắc, do Văn phòng Trợ giúp Pháp lý Công nhân và Cô dâu Việt Nam tại Đài Loan tổ chức. Nguồn: vietcatholic.net Nghe bài viết trên đài RFI Trước đó báo chí vẫn thường xuyên đưa tin về những cảnh ngộ đau lòng của các cô gái Việt trên đất khách quê người sau các cuộc hôn nhân chóng vánh qua môi giới với đàn ông Hàn Quốc hay Đài Loan. Trong bối cảnh mở cửa hiện nay thì việc hôn nhân xuyên quốc gia đối với người Việt Nam không còn là chuyện gì mới lạ. Chuyện cuộc sống sau hôn nhân của các cặp kết hôn đó cũng sẽ là bình thường nếu như việc kết hôn với người nước ngoài (chủ yếu là giữa các cô gái Việt Nam với đàn ông Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc) không ồ ạt trở thành một trào lưu để rồi dẫn tới những hệ lụy , xúc phạm nhân phẩm của nhiều phụ nữ và thậm chí dẫn đến bi kịch đau thương khiến dư luận bất bình. Để tìm hiểu vì sao nhiều cô gái Việt Nam bị cuốn vào các cuộc hôn nhân đầy rủi ro với đàn ông ngoại quốc và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trước phong trào kết hôn với người Đài Loan và Hàn Quốc ở một số tỉnh đồng bằng sống Cửu Long hiện nay, RFI đã có cuộc phỏng vấn với PGS – Tiến sĩ dân tộc học Nguyễn Văn Tiệp, chủ nhiệm khoa Nhân học Đại học Khoa học xã hội Nhân văn , thành phố Hồ Chí Minh. Xin chào tiến sĩ Nguyễn Văn Tiệp, gần đây các cuộc kết hôn của các cô gái Việt Nam với đàn ông Hàn Quốc, Đài Loan, đang trở thành một làn sóng ồ ạt, đặc biệt là ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Là một nhà nghiên cứu về dân tộc học và có những nghiên cứu về vấn đề hôn nhân xuyên quốc gia, ông có nhận thấy điều gì bất bình thường trong các cuộc hôn nhân xuyên quốc gia đó ? Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay thì tôi nghĩ việc hôn nhân với người nước ngoài là bình thường, nhưng ở đây tôi thấy cũng có những cái bất thường. Trước hết đó là hoạt động trục lợi trong môi giới hôn nhân, cho nên các tổ chức môi giới hôn nhân hoạt động lén lút nhưng khá đông. Chính đó là một trong những ngoại lực để kích thích thêm tâm lý lấy chồng nước ngoài. Nếu mà quản lý nhà nước tốt thì có lẽ các hoạt động của các tổ chức này sẽ giảm thiểu đi. Một yếu tố nữa là phải nói rằng có một cái lực đẩy để cho các cô dâu đồng bằng sông cửu Long lấy chồng nước ngoài, nói thực, phần lớn các cô dâu đều có học vấn thấp, chỉ mới học hết cấp 1 cấp 2, nghề nghiệp không ổn định, rồi nông thôn như đồng bằng sông Cửu Long hiện nay công nghiệp hóa nên dư thừa lao động khá nhiều, trong lúc đó thu nhập của lao động nữ rất là thấp. Trong bối cảnh khó khăn như vậy thì một trong những cách để thoát khỏi cảnh nghèo khó, mà cũng mong muốn có một cuộc sống tốt hơn. Theo tôi đấy cũng là một nguyện vọng chính đáng thôi. Vấn đề làm sao phải có những chương trình phát triển nông thôn, rồi phát triển về ý tế giáo dục để làm sao để thay đổi điều kiện sống, nâng cao chất lượng sống của bộ phận dân nghèo đồng bằng sông Cửu Long, thì theo tôi nghĩ nó sẽ giảm thiểu đi thôi. Tôi cũng thấy rằng, trước đây phụ nữ Philipines, Malaisia cũng lấy chồng Hàn Quốc hay Đài Loan nhiều, nhưng mà bây giờ họ đã giảm đi rất nhiều rồi. Tỷ lệ số lượng rất ít không đáng kể gì so với Việt Nam vì hiện nay đời sống của họ khá cao. Tôi nghĩ đây là một cái nguyên nhân cũng rất quan trọng mà phía Việt Nam cũng phải quan tâm. Nếu không làm được vấn đề giảm nghèo, không giải quyết được các vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề giới chị em phụ nữ gặp những khó khăn về kinh tế về học vấn, nghề nghiệp đi lấy chồng nước ngoài theo tôi thì cũng như là một lối thoát, mặc dù chưa phải là cái lựa chọn hay lắm, nhưng mà ít ra cũng là một lối thoát. Với tư cách là nhà nghiên cứu thì tôi nhìn vấn đề có khác hơn so với các nhà quản lý. Nhưng thực tế lại chứng minh ngược lại, các cuộc kết hôn này thường lại dẫn đến nhiều rủi ro cho các cô dâu Việt, kết cục thương tâm đến với cô dâu Thạch Hồng Ngọc bị chồng sát hại sau một tuần chung sống với chồng là một thí dụ. Vậy nguyên nhân nào khiến cho các cuộc hôn nhân này dẫn đến rủi ro và bất trắc như vậy, thưa ông? Quả là vấn đề hôn nhân xuyên quốc gia ở Việt Nam hiện nay diễn ra khá sôi động. Nó có nhiều nguyên nhân. Theo tôi những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng rủi ro thường do môi giới. Việc kết hôn này thường thông qua các tổ chức môi giới, kể cả ở phía Hàn Quốc và phía Việt Nam. Thì anh biết đấy, luật pháp Việt Nam không cho phép các tổ chức môi giới hôn nhân hoạt động một cách công khai và cấm. Một thời gian khá lâu rồi có được thừa nhận, nhưng cách đây mấy năm thì lại cấm do cái việc quản lý không được thì cấm, nhưng mà trên thực tế thì họ vẫn lén lút hoạt động. Tuy nhiên thì do nhu cầu từ hai phía là việc đàn ông Đài Loan, Hàn Quốc muốn lấy vợ ở các nước đang phát triển như Việt Nam hay một số nước ở Đông Nam Á, cũng như là phụ nữ ở nông thôn Việt Nam mà phần lớn là phụ nữ ở đồng bằng sông Cửu Long thì cũng có như cầu kết hôn với đàn ông nước ngoài. Trên thực tế đó cho nên các tổ chức môi giới kết hôn nó vẫn lén lút hoạt động, và có thời điểm trở nên rất nóng. Chính vì qua các tổ chức môi giới kết hôn mà nhà nước không có sự quản lý chặt, không có sự phối hợp từ hai phía, Việt Nam Hàn Quốc hay là Việt Nam Đài Loan, cho nên cái rủi ro trong hôn nhân nó diễn ra. Vì cấm nên người ta lén lút hoạt động cho nên quản lý không tốt, vì thế mới dẫn đến tình trạng như vừa rồi mà chúng ta thấy. Không chỉ có những vụ như vừa rồi mà còn nhiều vụ khác mà tôi đã đi khảo sát từ bên Hàn Quốc cũng như từ phía cộng đồng của người Việt Nam thì nó không chỉ có những vụ việc như vậy đâu mà còn nhiều sự kiện, nó cũng đau lòng nhưng không đến mức đau thương như sự kiện vừa rồi. Đây là cái việc không chỉ thuần túy là của đôi vợ chồng mà nó liên quan đến cả hai nước, vì vậy, theo tôi, trách nhiệm của quản lý nhà nước là rất quan trọng. Nhất là các bộ phận quản lý liên quan như là công an, luật pháp. Phải có sự tăng cường quản lý phối hợp giữa hai phía. Ông nói đến vai trò quản lý nhà nước, vậy cụ thể các cơ quan hữu trách của Việt Nam ở đây phải can thiệp vào các cuộc hôn nhân này ở mức độ như thế nào ? Cách đây hai năm thì cũng có mấy vụ liền thì cũng đã dấy lên rồi. Thực ra về phía Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, rồi đoàn Thanh niên các tổ chức luật pháp cũng lên tiếng phát biểu thế này thế kia, cũng có một số động thái nhưng mà hình như chỉ lúc đó thôi rồi sau đó quên lãng và không tiếp tục các việc làm tiếp theo. Đặc biệt là việc phối hợp với các phía Hàn Quốc với phía Đài Loan để kết nối phối hợp hai bên giải quyết các vấn đề thực tế nó đặt ra. Nên cuối cùng hiệu quả về quản lý nhà nước và để có tác động về mặt chính sách thực ra mà nói là thấp. Trước hết là quản lý về luật pháp. Phải có sự bàn thảo hai bên thống nhất một số văn bản luật pháp. Nếu mà mình không giải quyết được các vấn đề luật pháp một cách thỏa đáng, những văn bản pháp lý đó nó giải quyết được các vấn đề của thực tế chứ không phải những văn bản có tính chất chung chung. Tôi nghĩ phải có những cuộc trao đổi song phương về mặt luật pháp cũng như về mặt quản lý nhà nước giữa Việt Nam và Hàn Quốc hay Đài Loan, như vậy hai bên có cái phối hợp không chỉ là văn bản luật pháp phối hợp tổ chức quản lý mà theo tôi còn phải xây dựng các chương trình để hỗ trợ các cô dâu cũng như các chàng rể nước ngoài để hội nhập văn hóa, để có sự hiểu biết, có sự chuẩn bị và còn có trách nhiệm để, không chỉ trong việc hôn nhân trước mắt mà lâu dài hơn là để họ chung sống hạnh phúc lâu dài, rồi những vấn đề hậu hôn nhân, vấn đề con lai, quyền công dân để đảm bảo quyền lợi phụ nữ Việt Nam để họ có công ăn việc làm để trở thành công dân chính thức của Hàn Quốc, thì còn rất nhiều vấn đề phải bàn. Cũng như vấn đề con lai, rõ ràng đây là vấn đề rất nhạy cảm, cần phải có phối hợp hai bên để quản lý. Tôi đã thấy có trường hợp một số cô dâu bỏ về Việt Nam, mang con về Việt Nam, rồi chồng sang yêu cầu lại bắt về. Những vấn đề như thế, bây giờ thì ít nhưng mà sau này nó sẽ nhiều thêm. Thì rõ ràng phải có những cái văn bản pháp lý, thống nhất quản lý nhà nước thì mới giải quyest được, không thể tùy tiện được. Về phía Việt Nam, theo tôi hiện nay sự quan tâm chưa đáp ứng được cái nhu cầu mong đợi của xã hội cũng như của các cô dâu lấy chồng nước ngoài. Nếu tiếp tục như thế này thì tình trạng đó vẫn cứ tiếp diễn thôi. Về cái này, chức năng quản lý nhà nước rất quan trọng, không ai thay thế được. Theo tôi, riêng về phía Việt Nam phải đưa ra những văn bản về mặt quản lý nhà nước rất rõ ràng đối với tổ chức môi giới kết hôn. Cách đây hai năm tôi đã có ý kiến rồi, tức là nên cho phép tổ chức môi giới kết hôn một cách công khai, có địa chỉ, có e-mail... để mà liên kết với phía bên kia và có sự giám sát và quản lý của nhà nước. Cùng với nó là sự phối hợp với các tổ chức quần chúng tổ chức phi chính phủ, để hỗ trợ các cô dâu. Thí dụ như học tiếng Trung Quốc, học tiếng Hàn Quốc rồi học văn hóa của họ để có ít nhiều cái vốn văn hóa trước khi đi làm dâu xứ người. Tôi nghĩ rằng cái này rất quan trọng, nhưng mà hiện nay thì chưa làm được. Công việc này thì nhà nước lại giao cho Hội Phụ nữ đứng ra hỗ trợ các phụ nữ kết hôn với người nước ngoài, hỗ trợ tức là tư vấn về mặt pháp lý, nhưng mà thực ra mà nói thì hiệu quả nó thấp do cái khả năng tác nghiệp của họ không tốt lắm. Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một trung tâm nhưng mà hiệu quả hoạt động không cao lắm. Vì vậy nó không đáp ứng được cái như cầu thực tế, vì thế mà các tổ chức môi giới kết hôn chui nó vẫn cứ hoạt động lén lút, nhưng lại khá rầm rộ. Họ có chân rết từ thành phố, từ phía Hàn Quốc, Đài Loan cho đến các mạng lưới ở vùng nông thôn. Từ vùng sâu vùng xa đều có mạng lưới của họ hoạt động cả, thành ra vì cái lợi nhuận cho nên các tổ chức môi giới kết hôn này đã trục lợi cả hai phía, phía Hàn Quốc cũng như phía chị em chúng ta đi lấy chồng. Cho nên không ngăn chặn được hiện tượng này tôi nghĩ rằng những hiện tượng rủi ro nó vẫn còn tiếp diễn, có khi nó còn xấu hơn tình hiện nay. Để giảm bớt rủi ro tránh những bi kịch đáng tiếc xảy ra cho các cô dâu sau hôn nhân thì có một yếu tố không kém quan trọng đó là khả năng thích nghi và hội nhập vào xã hội sở tại của các cô dâu Việt. Qua nghiên cứu và khảo sát thực tế, ông nghĩ sao về vấn đề này ? Tôi cũng rất quan tâm đến vấn đề này, bởi vì cái gia đình khi người phụ nữa Việt Nam lấy chồng nước ngoài thì nó sẽ dẫn đến loại hình gia đình đa văn hóa, tức là có pha trộn yếu tố văn hóa của hai dân tộc, vừa Hàn vừa Việt hay là vừa Đài Loan vừa Việt. Cho nên một trong những vấn đề để đảm bảo hạnh phúc trước mắt cũng như lâu dài là phải làm sao giúp cho chị em được một số cái vốn văn hóa ban đầu hiểu biết về đất nước văn hóa, ngôn ngữ của họ. Theo tôi nghĩ trước khi đi lấy chồng ít nhất phải có một hành trang tối thiểu để sang đó có thể thích nghi hội nhập dần dần. Cái này rất quan trọng, tôi biết là các tổ chức Hàn Quốc rất quan tâm. Rất tiếc là phía Việt Nam chúng ta làm chưa tốt vấn đề này, chưa hỗ trợ tích cực cho các cô dâu khi mà đi lấy chồng nước ngoài. Thứ hai là các cô dâu của chúng ta do học vấn thấp, là con em nhà nghèo, nghề nghiệp những cái cần thiết tối thiểu vẫn chưa được trang bị đầy đủ, cho nên cái khả năng thích nghi, khả năng hội nhập khi đi lấy chồng là thấp. Chính đó cũng là cái nguyên nhân dẫn đến xung đột văn hóa trong một cái gia đình đa văn hóa. Đây là vấn đề, theo tôi nghĩ là cần phải có sự nghiên cứu, cần phải có chính sách để hỗ trợ. Riêng về phía Hàn Quốc, tôi biết là họ có cố gắng rất lớn trong việc thành lập hội những phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc, rồi họ đã tiến hành tổ chức các lớp học về tiếng Hàn cho các cô dâu Việt, rồi dạy văn hóa Hàn Quốc từ nấu ăn cho đến cách thức ứng xử trong gia đình v.v..Tuy nhiên việc là này ở thành phố thì tốt chứ còn ở những vùng sâu vùng xa, thậm chí có những cô gái do môi giới kết hôn chui lên họ không nắm được hết tất cả số cô dâu để mà có thể giúp đỡ. Nhưng rất tiếc, cố gắng của họ chưa đáp ứng được nhu cầu hiện nay, khi mà số lượng cô dâu, anh biết là riêng cô dâu ở Hàn Quốc hiện nay đã là 35 ngàn rồi. Cái thứ hai là sự phối hợp giữa hai phía Việt Nam và Hàn Quốc chưa được tốt. Việt Nam chưa có chủ động trong việc này, nếu Việt Nam chủ động tốt hơn thì rõ ràng khả năng thích nghi và hội nhập với văn hóa Hàn Quốc nó sẽ tốt hơn. Tôi cũng có phát biểu với một số tổ chức Hàn Quốc, ở đây không chỉ có các cô dâu Việt Nam phải học và thích nghi với văn hóa Hàn Quốc mà ngược lại thì người Hàn Quốc, gia đình, rồi chồng cũng phải hiểu văn hóa Việt Nam. Theo tôi một trong những nguyên nhân dẫn đến bất hòa trong quan hệ gia đình, thậm chí dẫn đến rủi ro trong hôn nhân là xung đột văn hóa, tạo ra các cái sốc văn hóa do quá trình thích nghi hội nhập văn hóa chậm của các cô dâu Việt. Trong lúc đó thì người Hàn Quốc lại không cố gắng tìm hiểu văn hóa Việt Nam để chia sẻ hoặc cảm thông nên nó dẫn đến những việc không hay và đặc biệt bất đồng ngôn ngữ. Khi mà các cô dâu chưa được trang bị ngôn ngữ tối thiểu thì sự giao tiếp, chia sẻ sẽ rất là khó khăn. RFI, xin cảm ơn tiến sĩ Nguyễn Văn Tiệp. Anh Vũ (RFI)

Thứ Ba, 27 tháng 7, 2010

Cấm hay không cấm đốt đồ vàng mã tại nơi công cộng ?

Tại Việt Nam, từ đầu năm 2010, ngay vào giữa mùa lễ hội, nhiều tiếng nói bắt đầu cất lên đề nghị nhà nước cần sớm đưa ra các quy định pháp luật mới để ngăn cấm việc đốt đồ mã, một trào lưu ngày càng trở nên phổ biến. Cảnh đốt đồ mã (DR) Hành động này được nhiều người coi là để lại nhiều hậu quả tiêu cực, như gây tốn kém, ảnh hưởng đến an toàn và trật tự trong xã hội, đặc biệt là tại các địa điểm tín ngưỡng. Trên thực tế, cuối năm 2006, một nghị định của chính phủ, trong đó có quy định cấm đốt vàng mã tại các nơi di tích trong thời gian lễ hội, đã được ban hành. Tuy nhiên, bất chấp việc cấm đoán về mặt nguyên tắc, trên thực tế, đồ mã ngày càng phát triển, thậm chí còn trở thành một mặt hàng sản xuất kinh doanh phổ biến, và là nguồn thu nhập của không ít người, đặc biệt tại các tỉnh phía bắc. Trước áp lực của những người phản đối mạnh các tệ nạn gắn liền với việc đốt mã, Bộ Văn hóa – Thể Thao – Du lịch đã chuẩn bị ra một thông tư mới để điều chỉnh việc đốt mã tại các nơi di tích trong dịp lễ hội. Dự thảo thông tư đã nhận được rất nhiều ý kiến đa chiều. Đầu tháng này, một cuộc trao đổi, do Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Việt Nam tổ chức, giữa các ông bà đồng, các thủ nhang và các nhà quản lý và nhà nghiên cứu đã được tiến hành. Một trong những nội dung của cuộc trao đổi này là tìm cách hạn chế các tiêu cực trong « tín ngưỡng truyền thống », cụ thể là trong việc đốt mã. Trong khi thông tư về điều chỉnh việc đốt mã nơi lễ hội vẫn đang còn được cơ quan chuyên môn của Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch soạn thảo, thì ngay trong tuần qua, một nghị định của chính phủ, ghi ngày 12/7/2010, đã được ban hành, qui định rõ « phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đến 1 triệu đồng đối với việc đốt đồ mã tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử-văn hóa, nơi công cộng khác ». Phần liên quan đến đồ mã trong nghị định kể trên, về mặt nội dung gần như giống hoàn toàn với nghị định năm 2006 cũng do chính phủ ban hành. Trên thực tế, tại Việt Nam hiện nay, nhiều người đang có xu hướng đi tìm một thỏa hiệp hay một nguyên tắc mang tính công bằng trong lĩnh vực phức tạp này. Để rộng đường công luận và tham gia vào cuộc trao đổi xung quanh vấn đề này, ban Việt ngữ RFI phỏng vấn giáo sư Trần Lâm Biền, nhà nghiên cứu về văn hóa « tín ngưỡng tôn giáo truyền thống », đồng thời là chuyên viên Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa – Thể Thao – Du lịch. Mời nghe bài phỏng vấn nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền (Hà Nội): Trọng Thành (RFI)

Lê Đại Hành Hoàng Đế (980 - 1005)

Lê Đại Hành Mời nghe truyện lịch sử Việt Nam : Lê Đại Hành
Lê Hoàn sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá trong một gia đình nghèo khổ "bố dỡ đó, mẹ xó chùa". Cha là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị Sen đều lần lượt qua đời khi Lê Hoàn còn nhỏ tuổi. Bởi vậy, cũng ngay từ bé, Lê Hoàn phải làm con nuôi cho một vị quan nhỏ, người cùng họ. Lớn lên, Lê Hoàn đi theo Nam Việt vương Đinh Liễn. Dù chỉ là lính thường nhưng trí dũng khác thường tính tình phóng khoáng nên được cha con Đinh Bộ Lĩnh yêu mến. Trong công cuộc đánh dẹp các sứ quân, Lê Hoàn tỏ rõ là người có tài nên được Đinh Bộ Lĩnh giao cho trông coi 2000 binh sĩ. Đến khi dẹp yên các sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh, Lê Hoàn được phong chức Thập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ (tỗng chỉ huy quân đội kiêm chỉ huy đội quân cấm vệ) của triều đình Hoa Lư. Lúc này Lê Hoàn vừa tròn 30 tuổi. Tháng 10 năm Kỹ Mão (979), cha con Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết hại. Đinh Toàn 6 tuổi lên ngôi vua, Lê Hoàn làm nhiếp chính, trong một tình thế đầy khó khăn. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp nổi loại nhưng bị Lê Hoàn dẹp tan. Ngô Nhật Khánh, phò mã nhà Đinh, bỏ vào Nam rước vua Cham pa cùng hơn nghìn chiến thuyền toan cướp kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão đắm hết. Tháng 7 năm Canh Thìn (980), đại quân Tống theo hai đường thủy, bộ xâm lược Đại Cồ Việt. Lê Hoàn lúc này đã lên ngôi hoàng đế tức Lê Đại Hành vừa triển khai lực lượng sẵn sàng chiến đấu vừa sai sứ đưa thư cầu hòa. Vua Tống đòi Dương Vân Nga và con là Đinh Toàn sang chầu. Tình thế bức bách, Lê Hoàn buộc phải cho quân đánh giặc quyết bảo vệ đất nước. Ông đã tái tạo một Bạch Đằng, sáng tạo một Chi Lăng, thắng lợi lớn trên cả hai mặt thủy bộ, giết được tướng giặc Hầu Nhân Bảo, diệt quá nưả quân Tống, buộc vua Tống phải xuống chiếu lui quân. Đại thắng năm Tân Tị (981) đã mở đầu kỷ nguyên Đại Việt bách thắng bọn phong kiến phương Bắc. Không chậm trễ, Lê Hoàn dốc sức chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên trong, Lê Hoàn chống cát cứ, xây dụng cơ sở của nền kinh tế. Đối với bên ngoài thì Ông thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo khôn khéo nhưng cương quyết bảo vệ nền độc lập của đất nước. Ông là vị vua nội trị, ngoại giao đều xuất sắc. Chuyện rằng: Năm Canh Dần (990), vua Tống sai Tống Cảo dẫn đầu đoàn sứ mang chiếu thư sang phong cho Lê Hoàn hai chữ "Đặc Tiến". Vốn biết nhà Tống hống hách, ngạo mạn, Lê Hoàn thay đổi cách đón tiếp. Ông sai Đinh Thừa Chính mang chín chiến thuyền và 300 quân sang tận Liên Châu (Quảng Đông, Trung Quốc), để đón sứ rồi bảo vệ đoàn sứ đến Đại cồ Việt. Tháng 10 năm đó, đoàn sứ Tông tới kinh đô Hoa Lư trong cảnh tưng bừng khác lạ: dưới sông, chiến thuyền tinh kỳ san sát; bên các sườn núi, quân lính võ phục chỉnh tề, gươm giáo sánh lòa; trên các cánh đồng, hàng trăm hàng ngàn trâu bò rong ruổi đen đặc, bụi bay mù mịt. Sứ Tống không thể không thấy sự hùng mạnh, giàu mạnh của nước Việt.Theo nghi lễ của Tống triều, khi nhận chiếu thư của "Thiên Triều", vua các nước chư hầu phải "lạy". Nhưng Lê Hoàn lấy cớ ngã ngựa, bị đau chân, không chịu "lạy". Tống Cảo đành chấp nhận. Sau bữa tiệc vui, Lê Hoàn cho người khiêng một con trăn lớn, dài vài trượng đến quán dịch nói với sứ Tống: - Nếu sứ thần ăn được thịt trăn thì vua tôi sẽ cho người làm cỗ để mời. Sứ Tống khiếp đảm từ chối. Lần khác, Lê Hoàn cho dắt tới hai con hổ dữ để sứ thần thưởng ngoạn. Sứ thần lại một phen sợ toát mồ hôi. Trước khi bọn Tống Cảo về nước, Lê Hoàn bảo họ: - Sau này, nếu có quốc thư thì nên giao nhận ngay đầu địa giới, không phiền sứ thần đến đây nữa. Năm Quý Tị, nhà Tống sắc phong cho vua Đại Hành làm Giao Chỉ quận vương rồi năm Đinh Dậu (977) là Nam Bình Vương. Năm Ất Tị (1005) vua Lê Đại Hành mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm Mời nghe Việt Sử Ca - Lê Đại Hành