Trang

Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

Phúc Âm Lễ Chúa Nhật Thứ IX MTN(B) - Lễ Chúa Ba Ngôi - ngày 03/06/2012



Lời Chúa trong Thánh Lễ Chúa Nhật - Lễ Chúa Ba Ngôi


Nguồn : www.40giayloichua.net

Mời nghe bài giảng "Lễ Chúa Nhật - Lễ Chúa Ba Ngôi " của Giám Mục Phê Rô Nguyễn Khảm.



Mời theo dõi Chương trình Phao Lô Mới : nội dung phân tích hình ảnh Chúa Thánh Thần và mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi .



Xin mời theo dõi Chương trình Phao Lô Mới : phân tích Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.



THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU
Lm.Carôlô Hồ Bạc Xái

* 1. "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế"

Ðôi khi ta không thể làm gì hơn cho một người đang đau khổ ngoài việc ở bên cạnh họ. Nhưng việc này thật quý giá, vì người đau khổ ấy cảm thấy được an ủi rất nhiều bởi tình bằng hữu của ta. Nếu biết có ai đang ở với mình để an ủi mình thì cuộc đời sẽ khác đi rất nhiều do không còn cảm thấy cô đơn nữa.

Ðức Giêsu bảo các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và Ngài hứa sẽ ở cùng họ luôn mãi. Ngài chỉ hứa có bấy nhiêu, không có sự bảo đảm nào khác. Nhưng đó chính là sự bảo đảm quan trọng nhất Ngài có thể ban cho họ. Mặc dù Ngài không bảo đảm cho họ có một cuộc sống khỏi mọi ưu phiền, thậm chí Ngài cũng không bảo đảm là họ sẽ thành công, tuy nhiên họ ý thức rằng bao lâu Ngài còn ở với họ thì họ sẽ có can đảm và sức mạnh để có thể đương đầu với bất cứ khó khăn nào trước mặt.

Ý thức có Chúa ở cùng chúng ta không thay đổi được thế giới của chúng ta nhưng có thể cho chúng ta can đảm để đối diện thế giới ấy. Chúng ta không xin Chúa thay đổi thế giới hầu làm cho thế giới dễ chịu hơn. Chúng ta chỉ xin Ngài bảo đảm rằng Ngài sẽ luôn ở với chúng ta khi chúng ta phải đương đầu với những khó khăn. Việc Ngài luôn ở với chúng ta sẽ che chở chúng ta khỏi cảm giác cô đơn và thất vọng.

Chúa luôn ờ cùng chúng ta, nhưng chúng ta không luôn ở cùng Chúa. Những bận rộn trong cuộc sống đã cắt đứt liên hệ của chúng ta với Ngài, và khi liên hệ của chúng ta với Ngài bị cắt thì chúng ta phải mất mát thiệt thòi rất nhiều.

Vì thế, chúng ta cần bồi dưỡng ý thức có Chúa luôn ở cùng chúng ta, bồi dưỡng bằng cầu nguyện. (Viết theo Flor McCarthy)

* 2. Tin tưởng vào Chúa

Lời cầu nguyện dưới đây ghi trên một mảnh giấy được tìm thấy trong thi thể một người lính trẻ tử trận trong thế chiến thứ I:

"Chúa ơi, trước đây con chưa bao giờ thưa chuyện với Ngài, nhưng bây giờ con xin chào Ngài. Họ từng nói với con rằng Ngài không hiện hữu, và như một thằng điên, con đã tin họ. Nhưng đêm hôm qua, con đã nhìn lên trời từ một lỗ nhỏ trong hầm trú. Con đã thấy vẻ đẹp của những vì sao và con nghĩ rằng vũ trụ bao la biết chừng nào. Khi đó con biết rằng họ đã nói dối. Con không biết Ngài sẽ bắt tay con không khi Ngài và con gặp nhau. Dù sao, con cảm nghĩ rằng Ngài sẽ hiểu cho tất cả những sa ngã của con. Thật lạ lùng sao con phải đến nơi khủng khiếp này mới có thể biết được Ngài. Trước đây còn đã làm gì? Con chẳng biết nói gì hơn, nhưng con đoan chắc rằng con rất hạnh phúc khi hôm nay được biết Ngài. Con cảm thấy giờ zero sắp đến. Sắp có một trận đánh khủng khiếp. Biết đâu ngay đêm nay con có thể đến nhà Ngài. Con đang khóc! Lạ quá con đang khóc, vì trước đây chưa bao giờ con khóc như thế. Bây giờ con phải đi. Nhưng vì con đi để gặp Ngài nên con không sợ chết nữa. "

Tiếc là người lính trẻ này biết Chúa quá muộn. Nhưng muộn còn hơn không. Khi chúng ta tự cho phép mình tách lìa khỏi Chúa thì chúng ta phải chịu nhiều mất mát to lớn. Mà việc chúng ta tách lìa khỏi Thiên Chúa không phải là do lỗi của Ngài. Bài đọc I hôm nay cho thấy Thiên Chúa đã chủ động đến với con người để được gần gũi với con người như thế nào. Còn bài đọc II thì cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người thân thiết đến mức nào. Chúng ta không chỉ là thành viên của dân Chúa mà còn là con cái Ngài. Nếu chúng ta liên kết với Ngài thì chúng ta trở nên những kẻ đồng thừa tự với Chúa Con trong Nước Trời. (Viết theo Flor McCarthy)

* 3. "Dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền"

Những số liệu về kết quả truyền giáo khiến chúng ta rất bi quan. Với tất cả mọi cố gắng và mọi phương tiện, mỗi năm có được khoảng nửa triệu người lớn gia nhập đạo Công giáo; nếu cộng thêm vào đó số trẻ em rửa tội nhờ cha mẹ là người công giáo khoảng 3 triệu rưỡi nữa, thì tổng cộng mỗi năm có thêm chừng 4 triệu người rửa tội. Trong khi đó chỉ ở nước Trung Hoa thôi mỗi năm có thêm 12 triệu dân, nghĩa là số dân Trung Hoa sinh ra trong một năm đã gấp 3 lần số người công giáo tăng thêm trên toàn thế giới. Năm 1960 số người công giáo toàn thế giới là 500 triệu, dân số Trung Hoa khoảng một tỉ rưởi, nghĩa là gấp 3 lần người công giáo trên toàn thế giới, năm 2000, số giáo dân hoàn cầu khoảng 600 triệu, còn dân Trung Hoa khoảng 2 tỉ rưỡi, nghĩa là giáo dân toàn cầu chỉ còn bằng 1/5 số dân của chỉ riêng một nước Trung Hoa. Ðó là ta đem tổng số giáo dân của toàn thế giới so sánh với dân số của chỉ một nước Trung Hoa thôi, chứ nếu so với tổng số nhân loại thì còn thể thảm hơn nữa. Cứ cái đà này thì giáo dân hiện này đã là một thiểu số trong nhân loại, mà càng về sau thì cái thiểu số đó càng nhỏ đi, tỉ lệ càng nhỏ đi hơn nữa. Như thế, có thể nói việc truyền giáo là một thất bại!

Nhưng đó là chúng ta tính trên những con số người được rửa tội, những con số rất bi quan. Còn nếu chúng ta nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác thì lại lạc quan. Chẳng hạn như mỗi khi một nơi nào đó trên thế giới gặp thiên tai như động đất, lũ lụt v. v. thì rất nhiều nước trên thế giới không phân biệt lập trường chính trị hay ý thức hệ lập tức gởi tiền bạc, lương thực, thuốc men, quần áo và nhân viên đến cứu trợ. Tinh thần bác ái xã hội của nhân loại càng ngày càng lớn thêm. Nhân loại cũng càng ngày càng biết tôn trọng phẩm giá con người hơn, càng ngày càng tôn trọng nhân phẩm của người phụ nữ hơn, càng ngày càng tôn trọng trẻ con hơn, càng ngày tôn trọng nhân quyền hơn... Do đâu mà có những sự tiến bộ đó? Chắc hẳn là do ảnh hưởng của tinh thần Tin mừng Kitô giáo. Nói như vậy không phải là dành công cho Kitô giáo một cách hồ đồ, mà có bằng chứng rõ ràng: trước khi Kitô giáo được truyền bá loài người đã sống như thế nào? Khi đó, đa thê là tình trạng đương nhiên: Một người đàn ông có quyền có nhiều vợ và muốn bỏ vợ lúc nào tuỳ ý. Khi đó người cha cũng có toàn quyền sinh sát trên con cái: sinh con ra nếu nó không phải là con trai, hay nếu nó tàn tật thì người cha có quyền giết chết nó đi không ai coi là tội. Khi đó chế độ nô lệ cũng là tình trạng đương nhiên: Người giàu có quyền mua những người nghèo về làm nô lệ phục dịch mình, người nô lệ ấy nếu còn mạnh khoẻ thì còn được nuôi dưỡng, còn nếu đã già yếu hay bệnh tật thì chủ có quyền giết đi hay đem bán cho người khác, người nô lệ được xem cũng như con trân con bò... Thế rồi Kitô giáo xuất hiện, giáo hội mở trường dạy học cho giới bình dân, Giáo Hội rao giảng vợ chồng nhất phu nhất phụ, GH lên án tục giết trẻ con, Giáo Hội vận động huỷ bỏ chế độ nô lệ, GH dạy những người chủ phải yêu thương các tôi tớ, GH dạy người giàu phải kính trọng những người nghèo... Vì tất cả đều là người, tất cả đều là con của Chúa và là anh em bình đẳng với nhau. Và dần dần, chế độ đa thê, chế độ nô lệ, tục lệ giết trẻ em biến mất... Dần dần người ta đề cao hơn tình huynh đệ, tình liên đới xã hội v. v... Những giá trị tinh thần của Kitô giáo ấy, ngày nay người ta coi là đương nhiên, kể cả những người không phải là Kitô giáo cũng đương nhiên sống theo những giá trị tinh thần ấy. Người hữu thần và người vô thần đều coi sống như thế là đúng, là phải, là đạo đức.

Những điều kể ra nảy giờ có ý nghĩa gì đối với ngay lời Ðức Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ"? Những điều trình bày phía trên muốn cho thấy rằng: nếu quan niệm truyền giáo chỉ là rửa tội cho người ta gia nhập cơ cấu hữu hình của GH thì truyền giáo quả là một thất bại lớn. Nhưng nếu quan niệm truyền giáo chính là truyền bá và làm thấm nhuần những giá trị Tin mừng vào môi trường mình sống thì truyền giáo vẫn còn là một thành công. Cả hai cách truyền giáo đều cần và bổ sung cho nhau. Nghĩa là GH ngày nay vẫn còn phải tiếp tục đón nhận những ai đến xin lãnh nhận bí tích Rửa tội và gia nhập vào cơ cấu hữu hình của GH, nhưng GH không nên tự mãn với việc Rửa tội, mà quan trọng hơn là làm cho tinh thần Tin mừng thấm nhiễm vào thế giới. Thiết nghĩ, ngày nay phải nhấn mạnh hơn vào cách thứ 2 này, bởi vì:

Việc dạy giáo lý, việc Rửa tội hầu như chỉ thích hợp hơn cho các linh mục tu sĩ. Vậy thì giáo dân khỏi phải truyền giáo ư? Không, giáo dân vẫn truyền giáo được bằng nếp sống tỏa chiếu tinh thần Tin mừng cho mọi người chung quanh mình.

Rồi có những hoàn cảnh không tiện nói về đạo, về Chúa, về Giáo Hội. Dù không tiện như thế nhưng ta vẫn có thể truyền giáo được bằng nếp sống của ta.

Và cũng có thể có những người không chịu Phép Rửa tôi được, không đi đến nhà thờ được, nhưng họ vẫn sống theo những giá trị tinh thần tốt đẹp của Tin mừng. Làm sao cho có được những người như thế cũng là một điều đáng mừng rồi. Thần học gia Karl Rahner đã gọi những người đó là những "Kitô hữu ẩn danh", nghĩa là tuy họ không có danh hiệu là Kitô hữu, nhưng thực chất họ sống y như một người Kitô hữu.

Có lẽ ngay từ ngày xưa Ðức Giêsu đã nghĩ tới cách truyền giáo đó và đề cao các đó khi Ngài giảng những dụ ngôn về Nước Trời: Nước Trời giống như men vùi trong thúng bột. Tuy men âm thầm không ai thấy nhưng nó dần dần làm cho cả thúng bột dậy men. Nước Trời giống như một cái hạt gieo xuống lòng đất, cho dù chủ có biết hay không, cho dù chủ đất thức hay ngủ, hạt giống ấy cứ ngày đêm đâm chồi mọc lên và cuối cùng thành một cây to lớn.

Công đồng Vaticanô để kêu gọi "Truyền giáo là bổn phận của mọi Kitô hữu". Với hoàn cảnh, khả năng và phương tiện của một người giáo dân, chúng ta có thể đáp lời kêu gọi của công đồng để truyền giáo bằng cách sống như một hạt men như một hạt giống giữa những người khác, nghĩa là bằng cuộc sống của mình, Chúng ta cho người ta thấy được sự tốt đẹp của tinh thần Tin mừng và người ta ham thích sống theo đó, dù ý thức hay vô ý thức cũng tốt. Cụ thể, chúng ta hãy sống như những lời kinh Hoà Bình mà thỉnh thoảng chúng ta vẫn đọc:

Ðem yêu thương vào nơi oán thù.
Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục.
Ðem an hoà vào nơi tranh chấp.
Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Ðem niềm tin vào nơi nghi ngờ.
Ðem cậy trông vào nơi tuyệt vọng.
Ðem ánh sáng vào chốn tối tăm.
Ðem niềm vui vào nơi sầu thảm.


* 4. Thiên Chúa là Tình yêu

Thánh Gioan đã định nghĩa "Thiên Chúa là Tình Yêu".

Thiên Chúa là Tình yêu nghĩa là Thiên Chúa chính là nguồn gốc của mọi tình yêu, Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi Tình yêu.

Thiên Chúa là Tình yêu có nghĩa là không có nơi nào Tình yêu được trọn vẹn hoàn hảo cho bằng Tình yêu nơi Thiên Chúa. Vì thế suy gẫm về Tình yêu Thiên Chúa có thể giúp ta rút ra được những gương mẫu cho Tình yêu loài người.

Vậy hôm nay, dịp lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy suy gẫm về Tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa có những đặc điểm gì?

1/ Ðặc điểm thứ nhất là Tình yêu của Thiên Chúa không cô độc.

TC không phải chỉ có một Ngôi tự yêu thương mình, nhưng TC có Ba Ngôi yêu thương nhau.

Ðiều đó cho thấy Yêu thương phải có đối tượng. Yêu thương thì là phải yêu thương ai khác mình, ngoài mình. Yêu thương không có đối tượng là yêu thương chính mình, đó là ích kỷ, nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngày xưa có một anh chàng tên là Narcisse không yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến nỗi một hôm nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng, anh xúc động quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết đuối. Về sau người ta đặt tên chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh Narcisse.

Nhưng tại sao yêu thương cần phải có đối tượng? Thưa cần có đối tượng để mà chăm sóc, phục vụ, âu yếm, ban phát... nói tóm lại để mà cho đi. Yêu thương là cho đi. Khi ta yêu thương ai, ta thích cho người đó hoặc cái này hoặc cái nọ: khi thì cho một món quà, khi thì cho một sự chăm sóc, khi thì cho một cử chỉ âu yếm, yêu thương cao độ nhất là cho người ấy chính bản thân mình. Cho đi thì hạnh phúc hơn là lãnh nhận. Vì thế ai yêu thương thật thì thích cho đi, trái lại kẻ nào thích lãnh nhận hơn thì là dấu kẻ đó còn ích kỷ chưa yêu thương thật.

2/ Ðặc điểm thứ hai của Tình yêu Thiên Chúa là vừa có sự khác biệt vừa có sự hợp nhất.

Chỉ có một TC nhưng lại có Ba Ngôi. Tuy có 3 Ngôi nhưng chỉ là một TC.

Có câu thơ "Mình với ta tuy 2 mà 1, ta với mình tuy 1 mà 2".
Áp dụng vào Tình yêu Thiên Chúa thì câu này có thể đổi lại là: Mình với ta tuy 3 mà một", hơi gượng ép một chút nhưng cũng đồng một ý nghĩa.

Ý nghĩa đó là: TC có Ba Ngôi hoàn toàn riêng biệt nhau: Ngôi Cha là đấng tạo dựng vũ trụ, Ngôi Con là Ðấng cứu chuộc loài người và Ngôi Thánh Thần là Ðấng Thánh hóa loài người. Nhưng dù khác biệt nhau mà 3 Ngôi không đối nghịch nhau, trái lại hoàn toàn hợp nhất với nhau đến nỗi cả 3 chỉ là một TC.

Ðiều đó có ý nghĩa là: Yêu thương thì phải chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau. Tuy nhiên những kẻ yêu thương nhau thì cho dù khác biệt nhưng không được đối nghịch xung khắc với nhau, mà phải hoà hợp với nhau.

Xin tóm lại những gì đã phân tích được từ Tình yêu của TC Ba Ngôi:

Yêu thương là cho đi.
Yêu thương là chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau.
Yêu thương là dù có khác biệt nhưng vẫn hoà hợp với nhau.


* 5. Tình yêu hiệp nhất

Trong cuộc đời của nghị viên Rémaud có một giai thoại lý thú sau đây: Lần đầu tiên từ Pyrénées đến Paris với tư cách là nghị viên, ông Rémaud thuê phòng trong một khách sạn và trả tiền trước một tháng: 150 quan Pháp. Chủ khách sạn hỏi:

- Ông có cần biên nhận không?
- Không, không cần thiết. Thiên Chúa nhìn thấy hết chúng ta.
- Ngài tin vào Thiên Chúa ư?
- Lẽ dĩ nhiên! Ông cũng thế chứ?
- Tôi thì không, thưa ngài.
- A! Vậy xin ông cho tôi ngay một tờ biên nhận!

*

Người ta thường nói: "Tin đạo chứ đừng tin người có đạo". Quả thật, khi gặp người có đạo chúng ta thấy tin tưởng hơn, yên tâm hơn. Nhưng thực tế, không hẳn là như vậy! Ở đây, chúng ta muốn nói đến niềm tin vào Thiên Chúa, tin các mầu nhiệm trong đạo. Ðã tin là có liều lĩnh, mạo hiểm. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn con người khó mà hiểu thấu.

Chúng ta thường dùng một vài hình ảnh loại suy để hiểu một phần nào mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Ðó là hình ảnh của nước. Nước có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn, và thể lỏng. Hoặc ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất. Tuy nhiên tất cả những so sánh ấy không tránh khỏi thiếu sót, vụng về khi nói về Thiên Chúa. Chỉ có Ðấng ở trong cung lòng Thiên Chúa, Ðức Giêsu Kitô đã vén mở cho chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị: là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi khác nhau nhưng cùng một Thiên Chúa.

Câu Kinh Thánh nổi tiếng về Ba Ngôi chính là "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt. 28, 19). Và hình ảnh đặc trưng nhất về Ba Ngôi được mạc khải khi Ðức Giêsu chịu phép rửa: Một hình chim bồ câu bay lượn trên mình Người, và một tiếng từ trời phán: "Con là Con Ta yêu dấu" (Mc. 1, 11). Ðó là hình ảnh sống động về chân dung của Chúa Ba Ngôi. Theo thánh Tôma Aquinô thì trong cuộc Hiển Dung, tất cả Ba Ngôi đã xuất hiện: "Chúa Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong Con người, Chúa Thánh Thần trong ánh mây sáng chói".

Thánh Luca nhìn lịch sử cứu độ như một viễn cảnh mang chiều kích Ba Ngôi: Thời Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời loan báo Tin mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời hậu Tin mừng mà Công vụ Tông đồ ghi lại là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần. Kinh Tin Kính duy trì mẫu tuyên xưng này: Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần ban nguồn sống.

Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta dựa vào thế giá của Ðức Giêsu, Người là sự thật (x. Ga. 8, 32) nên Người chẳng lừa dối ai.

Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta sống hiệp thông, chia sẻ và yêu thương. Vì "Ai ở trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy" (1Ga. 4, 16).

Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta làm dấu thánh giá trên thân xác, là in dấu Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời mình, là họa lại hình ảnh Ba Ngôi trong tâm hồn tha nhân.

Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của tình yêu, một tình yêu sáng tạo cứu độ và thánh hóa chúng ta; một tình yêu muốn hiệp thông với tất cả mọi người.Lạy Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần Ba Ngôi chí thánh luôn hiệp thông với nhau; xin cho mỗi người chúng con biết dẹp bỏ mọi chia sẻ, kỳ thị, hận thù; để chúng con luôn sống hiệp thông với nhau, như anh em trong một gia đình Thiên Chúa. Amen.

Thánh Ca : Tình Yêu Thiên Chúa


ĐỒNG HỒ MẶT TRỜI
Cha Mark Link, S.J.

Nhiều năm trước đây, một nhà truyền giáo làm việc trong vùng thôn dã ở Phi Châu trở về quê cũ là nước Anh để nghỉ hè.

Trong khi ở nhà, lúc đi dạo phố, ông bỗng nhận thấy có cái đồng hồ dùng mặt trời để chỉ thời gian. Ngay lập tức, ông nảy ra một ý kiến. Ông thầm nhủ, “Cái đồng hồ mặt trời đó có lẽ thật lý tưởng cho dân làng ở Phi Châu. Mình có thể dùng nó để dậy cho họ biết thời giờ trong ngày.”

Nhà truyền giáo mua chiếc đồng hồ này, đóng thùng, và đem nó về Phi Châu.

Khi ông trưởng làng trông thấy chiếc đồng hồ mặt trời, ông nhất định phải đặt nó ở giữa làng.

Dân làng cũng hồi hộp khi thấy chiếc đồng hồ mặt trời. Họ chưa bao giờ thấy một vật đẹp như thế trong đời. Họ càng khích động hơn nữa khi biết nó hoạt động như thế nào.

Nhà truyền giáo này thấy vui trước phản ứng của mọi người đối với đồng hồ mặt trời. Do đó, ông hoàn toàn không ngờ trước một sự kiện xảy ra một vài ngày sau đó.

Dân làng tụ họp lại và xây một cái mái che đồng hồ mặt trời để bảo vệ nó khỏi bị mưa nắng.

Có lẽ quý vị tự hỏi câu chuyện đó có liên hệ gì đến ngày lễ hôm nay – Lễ kính Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tôi nghĩ đồng hồ mặt trời thì rất giống với Ba Ngôi Thiên Chúa. Và Kitô Hữu chúng ta rất giống với dân làng Phi Châu.

Sự mặc khải mỹ miều nhất về đức tin của chúng ta là sự giảng dậy về Ba Ngôi Thiên Chúa, có thể nói, Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.

Chúng ta rất đúng khi đưa sự giảng dậy này vào tâm điểm đức tin. Chúng ta kính sợ Ba Ngôi Thiên Chúa.

Nhưng thay vì đưa sự giảng dậy này vào đời sống hàng ngày, chúng ta xây một cái mái ở trên đó, cũng như dân làng Phi Châu xây cái mái che đồng hồ mặt trời.

Với nhiều người chúng ta, sự giảng dậy về Ba Ngôi Thiên Chúa dường như không có giá trị thực tế khi áp dụng vào đời sống hàng ngày. Chúng ta coi đó như vật trang hoàng cho đức tin của chúng ta.
Do đó, vào ngày lễ Ba Ngôi Thiên Chúa, có lẽ rất tốt để nhìn kỹ hơn đến sự giảng dậy này.

Trước hết, hãy xem Kinh Thánh nói gì về Ba Ngôi. Kế đến, chúng ta hãy xem có thể nào làm cho Ba Ngôi trở nên một giá trị thực tiễn hơn trong đời sống chúng ta.

Trước hết, Kinh Thánh nói gì về Ba Ngôi Thiên Chúa?

Chúng ta tìm thấy Phúc Âm Thánh Gioan thường đề cập đến Ba Ngôi. Ở đây Đức Giêsu nói nhiều về Cha của Người. Đức Giêsu cũng ám chỉ nhiều đến Chúa Thánh Thần là người sẽ đến sau Đức Giêsu.

Tuy nhiên, việc đề cập đến Ba Ngôi nổi tiếng nhất được tìm thấy trong Phúc Âm Mátthêu. Đó là đoạn mà chúng ta đọc trong bài phúc âm hôm nay. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Vậy các con hãy đi ra khắp tứ phương thiên hạ và hãy làm cho họ trở nên môn đệ của Thầy: hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần.”

Tuy nhiên sự đề cập với hình ảnh sống động lại xảy ra trong Phúc Âm Máccô. Ngay sau khi Đức Giêsu được thanh tẩy, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, và một tiếng nói từ trời phán, “Con là Con yêu dấu của Ta.” Máccô 1:11

Tiếng nói, chim bồ câu, và Đức Giêsu – ba hình ảnh này tạo nên một chân dung sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Luca có đoạn thần học rất quyến rũ về Ba Ngôi. Thánh sử nhìn thấy lịch sử cứu độ trong viễn ảnh Ba Ngôi Thiên Chúa.

Với Luca, giai đoạn Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha. Giai đoạn phúc âm là kỷ nguyên của Chúa Con. Và giai đoạn hậu phúc âm, được bắt đầu với biến cố Pentecost, là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.

Sau cùng, Thánh Phaolô ám chỉ đến Ba Ngôi trong các thư của người. Sự đề cập nổi tiếng nhất của thánh nhân là lời chúc lành khi kết thúc thư II gửi tín hữu Côrintô: “Nguyện xin ơn sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Thiên Chúa, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2 Cor. 13;13)

Qua các thế kỷ, các thần học gia đã dùng nhiều hình ảnh cốt để đem cho chúng ta một cái nhìn về Ba Ngôi.

Thánh Patrick dùng ba lá của “clover” để chuyển tải ý tưởng về Ba Ngôi.

Thánh Y Nhã ở Loyola dùng thí dụ của ba nốt nhạc khi hợp thành âm nhạc.

Những người khác dùng thí dụ của nước, mà nó có thể hiện diện dưới ba hình thức khác nhau: thể hơi, đá, và chất lỏng. Chỉ là một nước, nhưng nó có thể dưới ba hình thức khác nhau. Tương tự như vậy, chúng ta có thể suy nghĩ về Thiên Chúa.

Bây giờ, chúng ta hãy cặn kẽ nhìn thấy điểm thứ hai: làm thế nào chúng ta có thể áp dụng ý nghĩa Ba Ngôi vào đời sống hàng ngày.

Một phương cách mà một số người thấy hữu ích, đó là tập cầu nguyện mà họ tuân theo hàng đêm trước khi đi ngủ. Họ dành ba phút để nhớ lại những gì xảy ra trong ngày.

Trong phút đầu, họ nghĩ đến cao điểm của ngày, điều tốt lành xảy ra – tỉ như một cuộc đàm thoại hữu ích với người bạn tốt. Họ nói với Chúa Cha về điều đó và cảm tạ Người.

Trong phút thứ hai, họ nghĩ đến điểm tệ nhất của ngày, điều gì xấu xa đã xảy ra – tỉ như cãi nhau với một người thân yêu. Họ nói với Chúa Giêsu về điều đó và xin Người tha thứ cho họ.

Trong phút thứ ba, họ nhìn đến ngày hôm sau, nghĩ đến điều quan trọng – tỉ như phải thi hành điều gì đó mà họ không thích. Họ nói với Chúa Thánh Thần về điều đó và xin Người giúp họ đối phó.

Như quý vị thấy, sự thực tập này bao gồm sự cầu nguyện và duyệt xét lương tâm. Nhưng quan trọng hơn là nó đã đưa Ba Ngôi Thiên Chúa vào những thực chất của đời sống hàng ngày.

Nếu quý vị đang tìm cách để đưa Ba Ngôi vào một vị thế quan trọng trong đời sống hàng ngày, quý vị có thể nghĩ đến việc thực tập này. Trong tuần lễ sắp tới, việc thực tập đó sẽ là một tiếp tục lý tưởng với ngày lễ mà chúng ta cử hành hôm nay.

Chúng ta hãy cùng nhau kết thúc một hành động Ba Ngôi mà nó đã trở thành dấu hiệu cầu chứng của đức tin Công Giáo chúng ta – Dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.”. Amen!

Thánh Ca : Lời Vọng Tình Yêu


CHÚA BA NGÔI
Msgr. Edward Peter Browne
L. M. Gioan Trần Khả chuyển dịch

Tôi tin là hầu hết qúi vị đã tham dự Thánh Lễ Phục Sinh. Thường thì rất đông người tham dự trong ngày Lễ Phục Sinh. Lễ Giáng Sinh cũng đông như vậy. Tất cả những người Công Giáo bề ngoài hay nghĩ mình là người Công Giáo thì đi dự lễ Giáng Sinh và Phục Sinh. Quí vị đã có mặt ở đây trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh và nếu qúi vị nhớ lại, trong Thánh Lễ ngay sau bài giảng, quí vị đã được yêu cầu canh tân lại những lời hứa của Bí Tích Thanh Tẩy. Tôi hỏi, “Anh chị em có từ bỏ Satan không?” “Thưa có.” “Và từ bỏ tất cả những công việc và các lời hứa của qủi Satan không?” “Thưa có.”

Tuyên Xưng Đức Tin

Có một lời tuyên xưng đức tin nữa và tôi sẽ hỏi anh chị em một trong những câu hỏi trong lời tuyên xưng đức tin này. Tôi sẽ hỏi để anh chị em trả lời. Câu hỏi sẽ là: “Anh chị em có tin Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng nên trời đất không?” và câu trả lời của anh chị em sẽ là, “Thưa có.” Bây giờ chúng ta sẽ thử bắt đầu, “Anh chị em có tin Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng trời đất không?” “Thưa có.” Tôi nghi là nếu tôi hắt xì hơi khi anh chị em đang trả lời, không ai sẽ nghe thấy câu trả lời của anh chị em bởi vì người ta trả lời theo kiểu máy móc. “Có, tôi tin.” Anh chị em đang tuyên xưng sự thật là, “Thưa có, tôi tin vào Thiên Chúa!” Hôm nay là ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi và chúng ta công bố sự thật là: TÔI TIN VÀO THIÊN CHÚA LÀ CHA TOÀN NĂNG, TÔI TIN VÀO CON MỘT THIÊN CHÚA, TÔI TIN VÀO CHÚA THÁNH THẦN. Tôi vững vàng tin tưởng. Anh chị em phải trả lời, “TÔI TIN, TÔI VỮNG VÀNG TIN! TÔI THỰC SỰ TIN! Nhưng đa số người ta nói cách nhỏ nhẹ, “Tôi tin, tôi vững vàng tin, tôi thực sự tin.”

Chúng ta sẽ không giải thích về Chúa Ba Ngôi bởi vì tôi không thể giải thích được. Đó là một mầu nhiệm. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên trời đất, chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ. Chúng ta biết Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa. Chúng ta biết Chúa Thánh Thần ngự trên chúng ta mỗi khi chúng ta lãnh nhận các Bí Tích và Thánh Thần ngự trong chúng ta. Chúng ta tin như thế, hay ít nhất chúng ta nói là chúng ta tin như thế.

Trong bài đọc thứ nhất của Thánh Lễ hôm nay, Mai-sen nói rằng Đây là lý do tại sao các ngươì phải biết lúc này và ghi khắc vào lòng rằng Chúa là Thiên Chúa trên trời và dưới đất và không có Chúa nào khác. Các người phải tuân giữ các lề luật và các giới răn ta nói với các người hôm nay, các người và con cháu các người sẽ thịnh vượng, các người sẽ sống trường thọ trong miền đất mà Chúa là Thiên Chúa của các người, ban cho các người mãi mãi. Anh chị em phải ghi tạc vào lòng của anh chị em: “Tôi phải tin và tuân giữ các lề luật và giới răn.” Anh chị em nói là anh chị em yêu mến Thiên Chúa, anh chị em nói là anh chị em tin vào Thiên Chúa. Cách mà anh chị em tuyên xưng đức tin của anh chị em nơi Thiên Chúa là anh chị em ghi tạc trong lòng của anh chị em rằng Chúa là Thiên Chúa trên trời, trên đất và dưới lòng đất. Rồi anh chị em tuân giữ lề luật và các giới răn. Đây chính là cách anh chị em tuyên xưng đức tin nơi Thiên Chúa.

Tin Giữ Giới Răn

Nếu chúng ta đọc lại qua các giới răn, nhiều người sẽ nghĩ rằng các giới răn thật là tiêu cực. Nhưng thực sự các giới răn là những lời công bố tích cực.Thí dụ, giới răn Thứ Nhất nói anh chị em phải thờ lạy một Thiên Chúa duy nhất. Ta là Chúa, các ngươi không được tôn thờ bất cứ chúa nào khác. Đó không phải là lời tiêu cực. Ngài nói với anh chị em là hãy có đức tin, “tin tưởng vào ta.”

Các ngươi không được xúc phạm đến danh thánh của Thiên Chúa, các ngươi phải tôn kính danh ta. Các ngươi phải sống nhân danh ta. Các ngươi phải tuyên xưng danh ta suốt đời. Đó là niềm tin nơi Thiên Chúa. Đó không phải là điều tiêu cực nhưng là tích cực.

Khi giới luật Thứ Ba nói là các anh chị em phải nhớ giữ ngày Chúa Nhật, đó là vì anh chị em tin vào Đức Giêsu Kitô Đấng là Con Thiên Chúa. Anh chị em tin là Chúa Giêsu Kitô hiện diện nơi bàn thánh. Anh chị em tin, hay ít nhất anh chị em nói là anh chị em tin rằng đây là Bí Tích Thánh Thể thật tuyệt diệu. Tuy thế, có người lại đến ăn mặc cách bê bối, vào trễ ra sớm. Anh chị em có thật tin không? Anh chị em nói là có, anh chị em tin, nhưng anh chị em lại qúa bận rộn để đến tham dự, qúa bận rộn để đến chia sẻ bí bích bởi vì anh chị em có việc khác phải làm. Anh chị em có tin không? Có chứ, anh chị em tin, nhưng anh chị em lại không thực hành niềm tin. Đức tin không thực hành thì có ích lợi gì?

Giới Luật Thứ Tư nói là anh chị em phải thảo kính cha mẹ nhờ đó anh chị em có thể sống trường thọ ở đời này. Anh chị em có thảo kính cha mẹ vì anh chị em tin tưởng vào Thiên Chúa không? Hay bởi vì đó chỉ là điều tiện lợi? Hay bởi vì chúng ta luôn làm như thế, đó là điều đáng làm. Nó phải được thi hành vì tôn kính đối với Thiên Chúa. Chúng ta phải tôn kính Thiên Chúa Cha của chúng ta và cha mẹ chúng ta là bậc đại diện của Thiên Chúa. Chúng ta phải tôi kính các ngài giống như tôn kính Thiên Chúa Cha.

Chúng ta có Giới Luật thứ Năm dạy rằng, “Các ngươi không được giết người.” Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên ta. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống. Thiên Chúa đã ban cho chúng tất cả các tạo vật. Ngài đã đặt hàng triệu các vì sao trên giải ngân hà. Ngài ban cho chúng ta sự sống. Ngài truyền hãy tôn trọng sự sống đó bởi vì đó là sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tuy thế, nhiều người mẹ lại giết con mình. Có những trẻ em giết các trẻ em khác. Và anh chị em lại nói, có tôi tin nơi Thiên Chúa. Điều đó không nói lên là anh chị em tin.

Chúng ta có Giới Răn Thứ Sáu: “Các ngươi không được phạm tội tà dâm ngoại tình, không được xúc phạm đến sự sống ta đã ban cho các ngươi.” Đó không phải là điều tiêu cực mà là vấn đề dâng lại cho Thiên Chúa sự tôn trọng đời sống của anh chị em. Ngài đòi anh chị em phải thi hành sự trong sạch thanh khiết, bởi vì đây là những món qùa vô giá được Thiên Chúa ban cho chúng ta và chúng ta không muốn phá hủy đi, chúng ta không muốn phung phí, chúng ta không muốn gây trở ngại, chúng ta muốn bảo vệ niềm tin của chúng ta nơi Thiên Chúa. Tuy vậy, hãy nhìn vào xã hội ngày nay. Chẳng ai thực sự tin những điều này là qùa tặng của Thiên Chúa. Chúng chỉ là những thứ đồ chơi. Người ta nói có đấy, họ tin vào Thiên Chúa.

Các giới răn truyền rằng “Các ngươi không được lấy của người khác.” Điều đó có nghĩa là thi hành tinh thần công bình. Đó không phải là điều tiêu cực mà là điều tích cực. Tôi sẽ sống công bình. Tôi sẽ trao cho người khác cái thuộc về họ. Tuy thế người ta lại lấy của Thiên Chúa, không phải chỉ lấy của tha nhân, họ lấy trộm của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói, “Hãy dâng lại cho ta một số những cái Ta đã ban cho các ngươi.” Có bao nhiêu người dâng lại cho Thiên Chúa? Bao nhiêu người đóng góp? Có bao nhiêu người dâng hơn một phần trăm lợi tức của họ cho Thiên Chúa? Anh chị em nói có, anh chị em tin tưởng vào Thiên Chúa, anh chị em tin sự hiện diện của Chúa Kitô trong đời sống. Anh chị em tin. Anh chi em nói anh chị em tin, nhưng anh chị em làm điều gì? Anh chị em có tuân giữ các lề luật và các giới răn mà “Ta đã trao cho các ngươi hôm nay”?

Người ta nói dối, làm chứng dối, phá hại người láng giềng, đổ lỗi không đúng sự thật cho người khác, và họ nói họ tin nơi Thiên Chúa nhưng họ lại phá hại người hàng xóm của họ. Họ không tôn trọng đời sống của người khác. Tất cả những điều này là sự bày tỏ niềm tin của chúng ta. Chúng ta bày tỏ niềm tin của chúng ta bằng cách chúng ta hành động. Nếu anh chị em nói là anh chị em tin vào Thiên Chúa, thì hãy hành động như anh chị tin nơi Thiên Chúa. Hãy tuân giữ các giới răn và các lề luật. Hãy trung tín với Thiên Chúa, tin tưởng nơi Thiên Chúa, tôn kính Ngài. Hãy đến với các Bí Tich cách tôn kính và mong mỏi Chúa Giêsu Kitô đến với mình trong Bí Tích Thánh Thể. Tôi phải cung kính trong cách đón nhận Ngài vào trong đời sống của tôi. Tôi có tin như thế không? Nếu tôi tin, thì tôi sẽ thực hành.

Thực Hành Điều Mình Tin

Chỉ đơn giản nói, “Lạy Chúa, lạy Chúa,” sẽ không đưa anh chị em vào nước trời. Chỉ có một điều là nếu tôi tin thì tôi thực hành. Nếu anh chị em tin rằng anh chị em đã có sự thành công trên đời, có thể nuôi nấng gia đình, lo cho sức khỏe của mình, đó chính là vì anh chị em đã phải làm một số điều. Nếu anh chị em tin nơi Thiên Chúa thì anh chị em cũng phải làm một số điều. Đây chính là lý do tại sao anh chị em biết và ghi tạc trong lòng rằng Chúa là Thiên Chúa trên trời và dưới đất, và không có chúa nào khác. Các ngươi phải tuân giữ các huấn lệnh và giới răn mà Ta ban cho các ngươi hôm nay để nhờ đó các ngươi được trường thọ trong đất mà Chúa là Thiên Chúa của các ngươi đã ban cho các ngươi. Đất mà Thiên Chúa ban cho anh chị em vĩnh viễn là ơn cứu độ muôn đời. Anh chị em có tin như thế không? Anh chị em có thực lòng tin rằng chỉ có một Thiên Chúa Ba Ngôi không? Có tin Thiên Chúa đó đến để cứu chuộc anh chị em không? Nếu anh chị em tin như thế thì anh chị em sẽ tuân giữ các huấn lệnh và các giới răn của Ngài.

Ngay khi tôi giảng giải xong, chúng ta sẽ đứng lên để cùng đọc kinh Tin Kính. Chúng ta tin vào một Thiên Chúa duy nhất, chúng ta tin vào Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta tin điều này, tin điều kia, chúng ta tin vào nhiều điều khác, nhưng anh chị em có sống niềm tin đó không? Hay đó chỉ là cách chúng ta trả lời, “Có” khi được hỏi “Anh chị em có tin vào Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Thành trời đất không?” Đó có phải là cách mà anh chị em bày tỏ lòng tin của mình không?

Đây chính là điều chúng ta được mời gọi để thực hiện. TÔI TIN VÀO THIÊN CHÚA Và bởi vì tôi tin vào Thiên Chúa, tôi tin như là người con nhỏ của Thiên Chúa nhờ đó sự sống viên mãn của thiên Chúa có thể trở thành của tôi và dành cho tôi mãi mãi!

Xin Thiên Chúa chúc lành cho các bạn. Amen.

Thánh Ca : Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét