Lấy bối cảnh năm 347 sau Công nguyên ở Trung Quốc, Hắc Tâm Hổ đứng đầu Ma giáo tấn công khu rừng bình yên Trương Gia Giới. Hắn muốn bắt Kỳ Lân, linh thú của khu rừng, để uống máu tăng công lực. Hắc Tâm Hổ đã bị một nhóm thiếu hiệp ngăn chặn. Họ gồm bảy vị đại hiệp trẻ tuổi: Hồng Miêu, Sa Lệ, Thỏ Lam, Đạt Đạt, Đậu Đậu, Khiêu Khiêu, Đại Bôn. Cả nhóm đã tập hợp sức mạnh của 7 thanh kiếm thần kỳ và đánh bại Hắc Tâm Hổ, lập lại hòa bình rừng xanh.
Không từ bỏ mưu đồ thống trị rừng xanh của mình, 50 năm sau Hắc Tâm Hổ lãnh đạo Ma giáo trở lại xâm lược rừng xanh lần nữa. Lúc này bảy vị hiệp sĩ đã tản mát, lưu lạc trong giang hồ. Thế giặc hùng mạnh, phụ thân của Hồng Miêu đã hy sinh trong một trận huyết chiến với đội quân Ma giáo. Vì căm hận thù riêng, vì mục đích bảo vệ hòa bình, Hồng Miêu lên đường quy tụ thất kiếm anh hùng để đối đầu với Hắc Tâm Hổ lần nữa ...
MaiKa - Cô Bé Từ Trên Trời Rơi Xuống là bộ phim truyền hình khoa học viễn tưởng được phát bằng tiếng Slovak cho trẻ em vào năm 1978. Bộ phim rất nổi tiếng ở Tiệp Khắc và nhiều nước trên thế giới.
Bộ phim được chuyển thể từ cuốn sách Spadla z nebe (Cô bé đến từ bầu trời) được xuất bản năm 1967 bởi Václav Pavel Borovička, nhà văn và một nhà viết kịch bản phim người Czech. Ấn bản đầu tiên rất thành công và theo sau là hàng loạt lần tái bản mà gần đây nhất là vào năm 2000.
Một ngày nọ, bầu trời ở khu vực dãy núi phía sau làng Čabovce bỗng tối sầm rồi lại sáng một cách bất thường, rồi một sinh vật ngoài hành tinh đáp xuống. Mang trong mình hình hài của một cô bé, sinh vật đó gặp bọn trẻ trong làng và kết bạn với họ. Cô bé được bọn trẻ đặt tên là Mai-a (Maija). Mặc dù Mai-a sở hữu một vốn kiến thức rộng lớn về thế giới con người, cô bé thật sự không hiểu cảm xúc của con người cũng như cách cư xử của họ. Mai-a sử dụng khả năng bay lượn và sao chép đồ vật của mình cho những trò vui và những chuyến phiêu lưu cùng các bạn mình.
Khả năng phi thường của Mai-a dần dần thu hút sự chú ý của một tổ chức bí mật. Ngay khi nhân viên của tổ chức tìm cách bắt lấy Mai-a, chúng tìm cách phá hủy nguồn năng lượng của cô bé. Mai-a, lúc này đã trở lại nguyên hình là một người ngoài hành tinh, buộc phải quay về hành tinh quê hương của cô bé (hành tinh Gurun) nhưng cô hứa sẽ quay trở lại Trái Đất.
Mời các bạn theo dõi bộ phim "MaiKa - Cô Bé Từ Trên Trời Rơi Xuống" tại đây:
Kịch bản Người tình bí ẩn được phóng tác từ truyện ngắn Người đàn bà bí ẩn của Phạm Thị Ngọc Liên. Phim do đạo diễn Đinh Đức Liêm dàn dựng với sự tham gia của các diễn viên trẻ: Lê Bê La, Xuân Hòa, Bích Hằng, Thân Thúy Hà, Thành Được, Tấn Phương, Cao Văn Hồng, Phùng Hiệp, Hải Lý...
Bộ phim đề cập tới thực trạng hôn nhân không thể có con và sự ảnh hưởng trực tiếp của nó đến tình cảm vợ chồng nói riêng và cuộc sống gia đình nói chung. Đó cũng chính là thực trạng xảy ra với nhiều cặp vợ chồng của xã hội Việt Nam hiện đại. Tồn tại song song và đối nghịch với hiện trạng trên là những cuộc hôn nhân không lành mạnh, không chín chắn để dẫn đến hậu quả là chối bỏ đứa con- giọt máu ruột thịt của mình …
Biết cha (ông Thành) ngoại tình, và đã âm thầm ly hôn với mẹ (bà Thục) nhưng vẫn ra vẻ sống hạnh phúc trong một gia đình, đặc biệt khi biết mình là đứa con ngoại hôn của mẹ, Tú đã bị một cú sốc nặng và mất niềm tin vào mọi người và cuộc đời. Giờ đây, tâm hồn non trẻ của Tú chỉ là sự oán trách, giận hờn với những suy nghĩ tăm tối.
Từ con ngoan, trò giỏi, Tú trở thành một học trò cá biệt, lêu lổng, ăn chơi, quậy phá, hỗn láo và ngấm ngầm trả thù cuộc đời. Mong muốn mọi người phải đau lòng như chính cô đang trải qua, Tú ngầm yêu Hưng vị hôn phu của Lam, chị gái mình chỉ để trả thù. May mắn, Tú có một người anh rể dù có phải hy sinh hạnh phúc của mình cũng cố giữ bằng được niềm tin vào cuộc đời tươi đẹp cho em vợ. Bên cạnh đó Tú còn có một người chị rất mực yêu em với tình yêu cốt nhục, trong sáng, vị tha, và cũng sẵn sàng chia sẻ một phần thân thể của mình khi em lâm bệnh.
Khi thức tỉnh, Tú nhận ra lỗi lầm của mình, cô kể lại hết mọi chuyện và “Người tình bí ẩn mà anh rể không chịu nói ra với chị, đó chính là em!”...
Mời các bạn theo dõi bộ phim "Người Tình Bí Ẩn " , xem theo Playlist YouTube tại đây
Bài tường thuật của Sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu Ước.
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Nôe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không quy tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó: tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất.
2. Lưỡi lửa mà con người hôm nay cần
Nói là một sinh hoạt cần thiết trong cuộc sống chung: hằng ngày khi gặp người khác, chúng ta chào nhau, hỏi thăm nhau, trao đổi ý kiến với nhau, thảo luận, tranh luận v.v. Chính vì để phục vụ cho sinh hoạt cần thiết này mà khoa học kỹ thuật ngày nay đã phát minh ra máy khuếch âm, máy ghi âm, điện thoại v.v.
Nhưng nói với nhau là một chuyện, còn hiểu nhau là một chuyện khác. Hai chuyện này chưa hẳn luôn đi đôi với nhau. Nói với nhau thì nhiều nhưng hiểu nhau chắc không được bao nhiêu. Dịch một ngoại ngữ thì dễ hơn là hiểu được ý thật, lòng thật của người đang ở sát bên cạnh mình.
Có đặt mình trong bối cảnh như thế, chúng ta mới thấy được "lưỡi lửa" mà bài sách Cv hôm nay mô tả là cần thiết thế nào cho con người hôm nay. Ngày xưa, những người có mặt hôm lễ Ngũ tuần tuy nói nhiều ngôn ngữ khác nhau nhưng đều hiểu nhau. Ðó là hiệu quả bởi "lưỡi lửa" của Chúa Thánh Thần. Lưỡi hình lửa là tiếng nói của tình yêu. Tiếng nói chân thật nhất là tiếng xuất phát từ cõi lòng. Tiếng nói dễ hiểu nhất là tiếng của tình yêu.
Xin "lưỡi lửa" hiện xuống tràn đầy trong mỗi người chúng ta và trong cộng đoàn chúng ta.
3. Thổi hơi
Bài tường thuật tạo dựng loài người trong sách Sáng thế kể rằng sau khi Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình người, Ngài đã thổi hơi vào đó, và thế là con người đầu tiên xuất hiện. "Hơi thở" của Thiên Chúa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguyên lý tạo dựng.
Nhưng con người đã phạm tội, bị đuổi khỏi vườn Ðịa đàng, hạnh phúc ban đầu đã bị đánh mất.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu lại thổi hơi trên các tông đồ. Phải chăng đây cũng là một đối ảnh của câu chuyện trong sách Sáng thế? Và nếu đúng là thế, thì hôm nay Thiên Chúa tái tạo lại con người, cũng bằng "hơi thở" là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý của sự tái tạo.
4. Hiệp nhất trong đa dạng
Giáo Hội ngày nay là một Giáo Hội đa dạng: đủ thứ linh đạo, đủ loại dòng tu, đủ cách làm tông đồ, quá nhiều hội nhóm, quá nhiều khuynh hướng, quá nhiều ý kiến... Có những kẻ bi quan đã cho rằng Giáo Hội đang trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng thực ra, sự đa dạng này thể hiện một sức sống phong phú.
Nhưng miễn là đa dạng đừng dẫn tới chia rẽ và chống đối phá hại nhau. Miễn sao đa dạng mà vẫn hiệp nhất.
Muốn được như vậy, chúng ta phải lưu ý tới những giáo huấn rất sâu sắc của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay:
•Mỗi người, mỗi nhóm hãy ý thức rằng "đặc sủng" của mình là ơn ban của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là tài sản hay tài năng riêng của mình.
•Ðừng khó chịu, trái lại hãy vui mừng khi thấy những người khác, nhóm khác cũng được ban cho những đặc sủng khác. Ðó là dấu Chúa Thánh Thần yêu thương Giáo Hội.
•Tận dụng "đặc sủng" Chúa Thánh Thần ban để góp phần mình vào việc xây dựng Giáo Hội, đồng thời ý thức rằng đó chỉ là một phần nhỏ mình góp cho Giáo Hội nên vẫn tôn trọng phần góp của người khác và hy vọng Giáo Hội được nhiều người khác góp phần xây dựng hơn nữa.
5. Chúa Thánh Thần, Ðấng bị quên lãng
Chúa Thánh Thần là Ðấng bị quên lãng. Ðúng vậy, Thiên Chúa có 3 Ngôi là Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế nhưng thường chúng ta chỉ nhớ tới Chúa Giêsu và Chúa Cha thôi, ít khi nhớ tới Chúa Thánh Thần
Thế nhưng Chúa Thánh Thần lại là Ðấng rất kỳ diệu, Ngài mà hoạt động nơi ai thì làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu nơi người đó. Ngài mà hoạt động nơi nào thì cũng làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu ở nơi đó. Xin đan cử 2 bằng chứng.
- Bằng chứng thứ nhất là đoạn sách CvTđ mà chúng ta vừa nghe: Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các tông đồ. Trước đó các tông đồ đã từng theo Chúa Giêsu 3 năm, đã từng nghe biết bao lời dạy dỗ của Chúa Giêsu, đã từng thấy biết bao phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng con người của các ông hầu như chẳng chịu ảnh hưởng tốt nào cả: vẫn lo tranh dành quyền lợi, vẫn sợ chết nên trốn kín trong nhà. Thế rồi Chúa Thánh Thần ngự đến trên các công và sau đó các ông được biến đổi hẳn: nhiệt thành với Tin Mừng, can đảm rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ một người như Phêrô đã từng run sợ chối Chúa bây bẩy trước những tên đầy tớ của vụ Thượng tế mà bây giờ lại đứng ra trước một đám đông rao giảng hùng hồn khiến cho liền ngay sa đó có 3 ngàn người xin theo đạo.
- Bằng chứng thứ hai là một bức thư rất đặc biệt. Bức thư này là của một cô gái nước ngoài gởi cho một LM. LM này trước đó có biên thư cho cô gái để trình bày những khó khăn trong bổn phận của mình. Cô gái biên thư khuyên vị LM ấy hãy can đảm, hãy cầu nguyện và mỗi ngày hãy dâng lễ sốt sắng. Cô gái còn cho biết nếp sống hằng ngày của cô: ngoài những giờ làm ăn, cô tranh thủ thời giờ đi dạy giáo lý cho 2 lớp tại một trường học, buổi tối cô tham gia cầu nguyện với một nhóm giáo dân từ 8 đến 10 giờ. Một cô gái giáo dân mới hơn 20 tuổi mà nhiệt thành làm việc tông đồ như vậy và còn nhiệt thành đến nỗi dám đưa ra những lời khuyên dạy đối với một LM! Do đâu mà cô nhiệt thành sốt sắng như vậy? Thưa vì cô đang sinh hoạt trong một nhóm giáo dân giúp nhau sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Nghe những bằng chứng trên, chắc chúng ta cũng mong muốn Chúa Thánh Thần hoạt động nơi chúng ta để làm những điều kỳ diệu nơi chúng ta. Nhưng làm sao để được như vậy? Xin đề nghị 2 điều:
- Một là chúng ta hãy cầu nguyện cùng với Chúa Thánh Thần. Chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng khi cầu nguyện chúng ta chỉ nói cho Chúa biết mình đang sống như thế nào, mình đang cần những ơn gì và xin Chúa ban ơn đó cho ta. Cầu nguyện như vậy là sai lầm, vì đâu phải nhở chúng ta nói mà Chúa mới biết chúng ta cần gì. Chúa là Ðấng biết tất cả mọi sự kia mà. Ðiều quan trọng nhất không phải là ta nói cho Chúa biết ta muốn gì, mà là xin Chúa cho ta biết Chúa đang muốn gì nơi ta. Do đó ta phải cầu nguyện cùng với Chúa Thánh Thần, để Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết ý Chúa và giúp ta sau đó làm theo ý Chúa. Có cầu nguyện như vậy thì sau đó cuộc đời ta mới biến đổi.
- Ðiều thứ hai có liên quan tới việc Xưng tội. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, có một điểm hơi lạ. Ðó là Chúa Giêsu vừa ban Chúa Thánh Thần vừa ban quyền tha tội cho các tông đồ: "Chúng con hãy nhận lãnh Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai... " Tại sao Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần và ban ơn tha tội chung nhau? Thưa vì 2 điều đó liên hệ chặt chẽ với nhau. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn lãnh Bí Tích Giải Tội cho có hiệu quả tốt thì chúng ta phải Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thộn. Ta hãy nhìn lại cách xưng tội bấy lâu nay của chúng ta. Mỗi khi xưng tội chúng ta làm 5 việc: một là xét mình xem mình có những tội gì; 2 là sau đó đọc một kinh ăn năn tội; 3 là vào toà xưng tội, kể cho kỹ hết mọi tội đừng sót tội nào; 4 là nghe cho rõ Cha giải tội dạy đọc bao nhiêu kinh; 5 là trở ra đọc cho hết bấy nhiêu kinh đó. Rồi trở về. Kết quả như thế nào? Chúng ta thấy an tâm hơn đôi chút. Nhưng cũng sống bình thường như trước, cũng phạm lại bấy nhiêu tội ấy, lần sau đi xưng tội cũng xưng bấy nhiêu tội ấy. Nghĩa là hầu như không có gì thay đổi. Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thần nghĩa là trong phần xét mình trước khi vào toà xưng tội, chúng ta hãy xét mình cùng với Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng cho ta chẳng những thấy được mình đã phạm những tội gì mà còn tại sao mình phạm những tội đó; xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta thấy những tội mà mình không thấy, Td nhiều người đâu có nghĩ rằng việc mình đang tính kế hại người là có tội, nhiều người đâu có nghĩ việc mình sống ích kỷ với nhà hàng xóm là có tội. Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thần nghĩa là sau khi xưng tội chúng ta xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết từ nay mình phải sửa đổi như thế nào. Có như vậy mỗi lần chúng ta đi xưng tội xong, cuộc sống của mình mới thay đổi tốt đẹp hơn.
6. Chúa Thánh Thần, Ðấng biến đổi
Bài trích sách Tông đồ Công vụ thuật lại biến cố ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ có nhiều điều rất phi thường: gió thổi ào ào như giông tố, những cục lửa có hình như cái lưỡi đậu trên đầu mỗi vị, sau đó các tông đồ nói tiếng lạ nghĩa là chỉ cần nói một thứ tiếng mà đủ mọi sắc dân khác nhau đều có thể hiểu. Những điều phi thường đó khiến cho đám đông dân chúng bở ngỡ kinh hoàng... Rồi hàng ngàn người đã xin lãnh phép Rửa Tội...
Nhưng điều quan trọng không phải là những biến cố phi thường ngoạn mục đó, mà chính là một cuộc biến đổi bên trong các tông đồ, rất âm thầm nhưng lại rất toàn diện: các ông là những người đã từng sát cánh ngày đêm với Chúa Giêsu , cùng ăn,, cùng đi, cùng làm với Chúa Giêsu suốt 3 năm trời, được Chúa Giêsu dạy dỗ rất nhiều, được chứng kiến biết bao việc làm của Chúa Giêsu ... Nhưng vốn tầm thường các ông cũng vẫn còn là những kẻ tầm thường. Tầm thường đến nỗi Thầy vừa bị bắt là tất cả bỏ chạy tan hoang, trốn chui trốn nhủi trong phòng đóng kín cửa không ai dám ló đầu ra ngoài. Tại sao thế? Vì bấy lâu nay các ông đi theo Chúa với tính toán vụ lợi, các ông hiểu giáo lý của Chúa một cách phàm tục: Ði theo Chúa như đi theo một chính trị gia đang lên hương với hy vọng sau này tới ngày thành công sẽ được chia chác địa vị quyền lợi; Chúa dạy giáo lý về nước Trời mà các ông thỉ chỉ hiểu về một nước thế tục. Cái chết của Chúa Giêsu đã làn tiêu tan mọi tham vọng chính trị, những quyền lợi các ông mong chờ cũng thành mây khói luôn, và cả sự an toàn của bản thân các ông cũng đang bị đe doạ nữa. Vì thế các ông sợ sệt, ẩn trốn.
Khi người ta theo Chúa với đầu óc vụ lợi, thì người ta tầm thường
Chúa Thánh Thần đến làm một cuộc thay đổi toàn diện: thay đổi lối nghĩ, lối nhìn, lối hiểu, lối tính toán của các ông: Hiểu giáo lý của Chúa cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước nữa; từ đó các ông quyết định vẫn theo Chúa nhưng không phải vì tính toán vụ lợi mà vì tình yêu hy sinh xả thân hoàn toàn. Cuộc thay đổi ấy đã giúp các ông hết tầm thường, biến các ông trở nên những kẻ trung thành, những cột trụ của Giáo Hội, đến nỗi dù đe doạ, dù tù đày, dù tra tấn, dù gươm giáo, các ông cũng vẫn can đảm và hăng say loan truyền niềm tin vào Chúa.
Ngày nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, điều chính yếu chúng ta mong ước cũng không phải là có những hiện tượng lạ gió thổi ào ào, lưỡi lửa trên đầu và nói tiếng lạ.... mà chúng ta mong chờ chính sự biến đổi sâu xa và toàn diện ấy trong tâm hồn chúng ta.
Ðó cũng chính là ý tưởng của ÐGH Phaolô VI trong bài huấn dụ của ngài hôm 29.11.1972. Ngài mô tả trong Giáo Hội có nhiều người theo đạo chỉ vì óc vụ lợi và hiểu giáo lý một cách phàm tục. Chính vì thế mà theo ngài, Giáo hội ngày nay cần có một lễ Hiện Xuống mới, để xin trích dẫn nguyên văn lời ngài "làm cho Giáo Hội được sống động, như có một luồng gió thiêng liêng làm căng buồm con thuyền Giáo Hội, là nguồn suối bên trong ban tràn đầy ánh sáng và sức mạnh cho Giáo Hội..."
Chắc chúng ta cũng ở trong tình trạng của các tông đồ trước ngày được Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Chúng ta cũng đã từng theo đạo mười mấy, hai ba chục năm trời, đã từng Rửa tội, đã bao nhiêu lần xưng tội rước lễ, đã từng lãnh bí tích thêm sức, đã bao nhiêu lần nghe giảng dạy đủ mọi điều giáo lý, Tin mừng.. nhưng con người của chúng ta vẫn cứ mãi tầm thường. Ðầu óc chúng ta còn đầy tính toán vụ lợi và tinh thần phàm tục: chúng ta theo đạo để xin Chúa ban ơn cho mình, được làm ăn thành công, được khỏi nỗi buồn khổ này, được đạt đến niềm mơ ước kia. Rồi khi nào cầu xin không được hay cứ gặp khốn khó thì ta chán muốn bỏ đạo, khi gặp nguy hiểm thì ta trốn chui trốn nhủi, không dám đến nhà thờ như các tông đồ xưa trốn kín trong phòng không dám ló đầu ra. Chúng ta cũng cắt nghĩa giáo lý theo kiểu cách phàm tục, không muốn tin những điều siêu nhiên, mầu nhiệm về Thiên Chúa, về linh hồn, về thiên đường hoả ngục, về bí tích; chúng ta đòi hỏi Giáo Hội có những giải pháp dễ dãi cho cuộc sống và chống đối những chỉ dẫn của Giáo Hội mà ta cho là khắt khe, chẳng hạn về việc vợ chồng ly dị, về các phương pháp ngừa thai v.v....Tóm lại, giữ đạo một cách vụ lợi và phàm tục như thế nên cuộc sống đạo của chúng ta nó thờ ơ, thụ động, dật dờ làm sao ấy. Ta sống đạo nhưng sống như một cái xác không hồn, không hứng khởi.
Muốn cho các xác lờ đờ này thực sự có sức sống sinh động, nghĩa là muốn cho cuộc sống đạo của chúng ta được hăng hái, tích cực, phấn khởi, thì cần phải có Chúa Thánh Thần hiện xuống trên chúng ta. Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi chúng ta toàn diện như các tông đồ ngày xưa: làm cho chúng ta hiểu giáo lý Chúa một cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước làm cho chúng ta theo Chúa không phải vì vụ lợi muốn được điều này điều nọ mà chi vì chúng ta thực sự tin Chúa, yêu Chúa và sẵn sàng hy sinh tất cả vì niềm tin yêu đó.
Thể theo lời Ðức Giêsu cầu xin, Chúa Cha đã ban Thánh Thần để quy tụ chúng ta thành Giáo Hội. Lạy Chúa Cha nhân hậu, không bao giờ chúng con có thể khám phá được hết những kỳ diệu của tình yêu Chúa dành cho chúng con trong cuộc sống. Ước gì Thánh Thần Chúa thâm nhập lòng trí chúng con, và biến đổi cuộc đời chúng con nên một lời ca tụng tình thương của Chúa.Amen.
Thánh Ca : Con vẫn Trông Cậy Chúa
ĐỨC KITÔ THỨ NĂM
Cha Mark Link, S.J.
Nhiều năm trước đây Leonard LeSourd, cựu chủ bút tờ Guidepost, ngồi ăn tối với mười người khác. Họ đang bàn tán về một cuốn phim về Đức Giêsu. Bỗng dưng một phụ nữ trẻ, hiển nhiên là nhàm chán cuộc đối thoại, lên tiếng, “Nói cho cùng, có ai muốn giống Đức Giêsu đâu?” Một sự im lặng nặng nề lan ra cả phòng. Sau đó cuộc đối thoại chuyển sang một hướng khác.
Về sau LeSourd tự nhủ, “Tại sao nhận xét của người phụ nữ đó đã tạo nên một sự im lặng nặng nề?”
Ông kết luận rằng, một số người cảm thấy bị đe doạ bởi nhận xét đó. Những người khác, có lẽ, cũng nhàm chán cuộc đối thoại như bà này. Và những người khác nữa đã không biết nhiều về Đức Giêsu để thấy rằng họ có thích Người hay không.
Sau đó LeSour tự hỏi mình về sự hiểu biết về Đức Giêsu. Ông kết luận rằng, trong cuộc đời ông từng biết đến năm Đức Kitô.
Đầu tiên ông gặp Đức Giêsu trong lớp giáo lý. Ông được giới thiệu về Đức Giêsu dưới hình thức một người có cái nhìn nghiêm khắc mà hình ảnh được treo đầy trên các tường lớp giáo lý.
Hình ảnh Giêsu này không tạo được một ấn tượng nơi đứa trẻ chín tuổi mà nó chỉ thích chơi banh hơn là tìm hiểu về một người đã sống cách đây 2,000 năm trong một nước thật xa.
Và vì vậy Đức Giêsu đầu tiên mà LeSourd biết đến là một “Đức Kitô không có thật”, chỉ hiện diện trong tâm trí non nớt của ông.
LeSourd gặp Đức Giêsu thứ hai trong khuôn viên đại học. Đây là Đức Kitô trong lịch sử. Đó là Đức Kitô có ấn tượng mạnh mẽ trên lịch sử đến nỗi ngay cả những người không phải là Kitô Hữu cũng gọi Người là “nhân vật vĩ đại nhất lịch sử.”
Nhưng Đức Kitô lịch sử này không chạm đến ông LeSourd một cách cá biệt. Người cũng chỉ là một vĩ nhân, giống như Lincoln. Ông nói, “Đưa Đức Kitô vào khung cảnh này là một giải pháp đơn giản trong thời gian đại học và bốn năm làm phi công cho Không Quân. Đức Giêsu lịch sử này không dính dáng đến bất cứ gì tôi muốn thi hành.”
Và như thế Đức Kitô thứ hai mà LeSourd gặp là “Đức Kitô lịch sử.”
LeSourd gặp Đức Kitô thứ ba sau khi ra khỏi quân ngũ, ông kiếm được một công việc với tờ Guidepost là phỏng vấn người ta về đức tin. Trong thời gian phỏng vấn này, ông ngạc nhiên khi biết nhiều người thành công trong đời đã sống theo những giảng dậy của Đức Giêsu.
Không bao lâu, ông thấy mình tìm đọc Phúc Âm để biết nhiều hơn về những giảng dậy này. Và như thế LeSourd gặp Đức Kitô thứ ba là “Đức Kitô bậc Thầy”.
LeSourd gặp Đức Kitô thứ tư trong cuộc tĩnh tâm. Chủ đề của buổi tĩnh tâm là cam kết với Đức Giêsu. Trong buổi tĩnh tâm, một người trẻ đứng lên và nói với người khác nghe làm thế nào anh đã đi đến một nguyện đường, quỳ xuống, và cam kết cuộc đời cho Đức Giêsu.
LeSourd cảm thấy bối rối vì sự hoàn toàn cởi mở của người trẻ này. Nhưng đồng thời, ông cũng muốn có được điều mà người trẻ này đã tìm thấy trong nguyện đường đó.
Bởi thế, trước khi cuộc tĩnh tâm chấm dứt, LeSourd đến một nhà nguyện, quỳ xuống, và cam kết cuộc đời mình cho Đức Giêsu. Ông nhớ lại giây phút không thể quên đó như sau:
“Tôi thấy mình ở trong nhà nguyện, quỳ trước bàn thờ, nói lời cầu thật đơn sơ, ‘Lậy Chúa, con không biết làm thế nào con lại ở đây, nhưng con muốn trao phó cuộc đời của con cho Chúa.’”
Và như thế LeSourd gặp gỡ Đức Giêsu thứ tư. Đó là “Đức Kitô Cứu Thế”. Đó là Đức Kitô đã sống trong ông một cách sâu xa và riêng tư.
Từ ngày đó trở đi, Đức Giêsu trở nên tâm điểm và hướng đi đời ông.
Và như thế sự hiểu biết của LeSourd về Đức Kitô đi từ “Đức Kitô không có thật” đến “Đức Kitô lịch sử” đến “Đức Kitô bậc Thầy” và đến “Đức Kitô Cứu Thế.”
Điều này đưa chúng ta đến Đức Kitô thứ năm và sau cùng. LeSourd gặp gỡ Đức Kitô sau cùng một cách bất ngờ.
Một ngày kia ông thấy mình bị cám dỗ dữ dội. Đó là loại cám dỗ lớn mà tất cả chúng ta đều thỉnh thoảng cảm thấy.
LeSourd cảm thấy mình sa ngã. Ông cuống cuồng tìm đến điều gì đó để bám víu vào. Ông tìm thấy điều đó trong sự cam kết mà ông đã thực hiện với Đức Giêsu nhiều năm trước đây trong cuộc tĩnh tâm.
Ông cũng tìm thấy những điều khác nữa. Ông đã tìm thấy sự tương giao ý nghĩa nhất chưa từng có với Đức Giêsu.
Đó là sự tiếp xúc với “Đức Kitô ở bên trong”. Đó là sự tiếp xúc với Đức Kitô Phục Sinh, là người đã khởi sự sống ở bên trong các môn đệ khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ vào Chúa Nhật Hiện Xuống cách đây 2,000 năm.
Giờ đây mọi sự trong Tân Ước bắt đầu phù hợp với nhau.
LeSourd nhìn thấy làm thế nào các Tông Đồ thường cam kết với Đức Giêsu trong sự tha thiết bất chợt. Nhưng khi sự cám dỗ lớn đến với họ, họ đã rơi vào con đường cũ.
Giuđa phản bội Đức Giêsu, Phêrô chối bỏ Người, và phần còn lại đã bỏ trốn.
Mãi cho đến ngày Hiện Xuống, khi các ông nhận được Thần Khí của Đức Giêsu, lúc đó các Tông Đồ mới thực sự biến đổi.
Vào ngày Hiện Xuống đầu tiên 2,000 năm trước, thần khí của Đức Giêsu phục sinh bắt đầu ngự trong các môn đệ cách mạnh mẽ.
Và đó là điều chúng ta cử mừng hôm nay. Chúng ta mừng ngày quan trọng đó trong lịch sử Kitô Giáo khi, qua sự ngự đến của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu phục sinh bắt đầu ở trong các môn đệ với một sự hiện diện cá biệt.
Chúng ta có thể so sánh sự gia tăng từ từ của LeSourd trong sự hiểu biết về Đức Giêsu với năm giai đoạn tăng trưởng của một thực vật.
Đức Kitô đầu tiên, “Đức Kitô không có thật” của thời thơ ấu của ông, tương ứng với hạt mầm của cây này. Đó chỉ là khởi đầu.
Đức Kitô thứ hai, “Đức Kitô lịch sử”, tương ứng với thân phát sinh từ hạt giống.
Đức Kitô thứ ba, “Đức Kitô bậc thầy”, tương ứng với nụ hoa mà nó từ từ sẽ hình thành ở đầu cuống hoa.
Đức Kitô thứ tư, “Đức Kitô Cứu Thế”, tương ứng với bông hoa nở ra từ nụ.
Đức Kitô thứ năm, “Đức Kitô ở bên trong”, tương ứng với trái cây được hình thành từ bông hoa của cây này.
Chính giai đoạn thứ năm và sau cùng này mà chúng ta mừng lễ Hiện Xuống. Đó là sự hiện diện của “Đức Kitô ở bên trong” trong Hội Thánh như một tổng thể và trong mỗi người chúng ta một cách riêng tư.
Thánh Ca : Bỏ Ngài , Con Biết Theo Ai ?
CÁC BẠN LÀ GIÁO HỘI
Msgr. Edward Peter Browne
L. M. Gioan Trần Khả chuyển dịch
Càng ngày người ta càng thấy như nắm chặt tay vung lên và than lên rằng: “Cái gì sai lầm trong đất nước này? Nó đang sa đọa tới lũ chó!” Và người ta bắt đầu dẫn chứng. Thí dụ có người mới đây đến nói với tôi, “Cái gì sai lầm trong đất nước của chúng ta vậy? Ban giám sát nhà trường đã cho phép tất cả những người thích đồng phái tính trong vùng được dùng một trong các trường trung học vào ngày hứ Bẩy để họ có thể tổ chức một buổi hội thảo về vấn đề thích đồng phái tính, huấn luyện, hướng dẫn, và phổ biến cho họ, nhưng các học sinh lại không được phép cầu nguyện trong buổi lễ ra trường trong cùng ngôi trường học đó.” Chúng ta nghe nói nhiều trường hợp giống như thế đang xẩy ra ngày nay.
Cái Điên của Thời Đại
Một thí dụ khác, mùa hè năm nay sẽ có cái gọi là Vận Hội Thể Thao của những người thích đồng phái tính. Những người thích đồng phái tính từ khắp nơi trên thế giới được mời về Nữu Ước để tham dự chương trình vận hội thể thao. Thông thường thì những người có nhiễm vi khuẩn lao hoặc một số những bệnh truyền nhiễm khác thì bị cấm không được vào nước Mỹ, nhưng một chuẩn chước đã được tổng trưởng hành pháp nói cho phép những người mang bệnh SIDA và HIV được vào nước trong dịp này. Khi những người này gặp nhau ở Nữu Ước, họ sẽ kéo đến tụ tập trước nhà thờ Chính Tòa Thánh Patricio và, như họ đã làm nhiều lần trong qúa khứ, là gây rối trong Thánh Lễ, xúc phạm tới Mình Thánh Chúa, và chẳng nhà chức trách nào có thái độ sửa trị họ. Chẳng có nhà chức trách nào nói gì cả. Tuy thế Quốc Hội lại mới thông qua sắc luật ban hành là những người phò sự sống không được biểu tình trước khuôn viên các cơ sở y viện phá thai nhằm bênh vực sự sống bởi nếu họ làm như thế thì họ sẽ bị bỏ tù mười năm. Các bạn nói, “Cái gì sai lạc với đất nước này rồi? Họ thật là điên!”
Có một tội phạm đã lỗi luật tù, say rượu, lái xe vượt tốc độ chạy hàng trăm dặm ngoài công lộ. Khi bị cảnh sát chặn bắt thì đã chống lại và đánh cả cảnh sát. Và dĩ nhiên là các cảnh sát cũng đánh lại hắn, nhưng cái gì đã xẩy ra biết không? Các nhân viên cảnh sát đã bị đi tù và tên tội phạm đó được thưởng mấy triệu đô.
Có một trường hợp hai anh em giết cha mẹ để cướp tiền. Họ đã thú tội với cảnh sát là họ đã giết cha mẹ của họ, và khi ra tòa thì lại được vô tội. Cái gì sai lạc ở thế giới hôm nay? Cái gì đang xẩy ra ở đất nước này? Một số cái thật quái gở. Cả thế giới dường như đang chui xuống lỗ cống.
Đức Hồng Y Hickey đã viết thư cho tổng thống phản đối lời tuyên bố của Tổng Trưởng Y Tế nói rằng bất cứ lối sống tính dục nào đều được chấp nhận và những người thích đồng phái tính được phép nhận con nuôi. Đức Hồng Y đã viết thư cho tổng thống và xin tổng thống phủ nhận lời công bố đó hay sửa lại lời và tổng thống đã chẳng thèm trả lời lá thư của Đức Hồng Y. Cái gì đang xẩy ra trên thế giới? Cái gì đang xẩy ra ở quốc gia này?
Một nam học sinh ở trường trung học, tôi nghĩ cậu ta ở lớp chín, và trong giờ giải trí ăn trưa, đã đem tài liệu tinh thần ra đọc trong lúc ăn trưa. Vài học sinh khác báo cáo lên hiệu trưởng, và vị hiệu trưởng đã phạt em học sinh đó tạm không được đến trường và nói với phụ huynh của em đó là nếu em tái phạm nữa thì cha mẹ của em phải đi tù. Tuy thế, họ lại có thể dạy bất cứ cái gì họ thích về phái tính dục, phân phát bao cao xu cho học sinh từ lớp mẫu giáo cho đến các học sinh lớp 12 ở trường, tất cả những cái phản loạn này.
Tôi có thể tiếp tục nói ra hàng danh sách dài của tất cả các dịch tệ, các xấu xa trong thế giới ngày nay. Các bạn nói, “Cái gì đang xẩy ra trong đất nước này? Tại sao không có ai làm gì cả?” Tôi thường được chất vấn “Tại sao Giáo Hội không làm gì đối với những tệ đoan đó?” Dĩ nhiên Giáo Hội có thể làm điều gì đó, bởi vì các bạn là Giáo Hội và các bạn có thể làm cái gì đó về vấn đề này.
Vai Trò Giáo Hội
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Đây được coi là ngày sinh nhật của Giáo Hội, ngày Giáo Hội xuất hiện để công bố Tin Mừng. Ngày đó khởi sự với mười một tông đồ ở một phòng lầu tại Giêrusalem. Chúa Thánh Thần đã ngự đến trên họ và họ bước ra rao giảng không sợ hãi. Họ nói bằng ngôn ngữ của họ và người ta lại nghe hiểu bằng ngôn ngữ của mỗi dân tộc riêng. Họ đã trích dẫn Tin Mừng, họ đã sẵng lòng chịu bắt bớ và luận phạt, bị bỏ tù vì rao giảng Tin Mừng. Họ đã được lãnh nhận Thánh Thần Đấng đã đổ tràn trên họ ánh sáng, ơn sủng, sự khôn ngoan và tình yêu của ngài. Ngài đã đổ tràn vào tâm hồn họ lòng khao khát truyền bá Tin Mừng.
Cùng một Thánh Thần mà họ đã lãnh nhận, các bạn và tôi cũng đã nhận lãnh. Khi các bạn lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy thì Thánh Thần cũng đã được ban vào trong linh hồn của các bạn y như các tông đồ đã được trong ngày lễ Hiện Xuống nơi phòng kín. Khi các bạn lãnh nhận bí tích thêm sức thì Thánh Thần cũng đã được ban vào trong linh hồn của các bạn y như các tông đồ nhận lãnh trong ngày lễ Hiện Xuống đầu tiên. Do đó các bạn là những nhà truyền giáo ngày nay của Giáo Hội, và các bạn phải làm chứng về Chúa Thánh Thần ở trong các bạn. Bởi vậy nếu thế giới có thay đổi, nếu quốc gia chúng ta có thay đổi, thì họ phải thấy sự thay đổi đó ở nơi chính bạn.
Có khoảng từ 55 đến 57 triệu người Công Giáo trong đất nước chúng ta. Nếu tất cả các người Công Giáo đứng lên và đón nhận ơn sủng của Chúa Thánh Thần và sống đúng theo ơn sủng của Thiên Chúa và giáo huấn của Tin Mừng, thì thế giới sẽ thay đổi. Quốc gia của chúng ta sẽ thay đổi. Thật đáng tiếc, thay vì đáp theo ơn sủng của Chúa Thánh Thần, người ta lại đi theo những cám dỗ của thế gian, đi theo những lôi cuốn của trần thế.
Người ta nói là họ không cần phải sống theo khuôn khở luật lệ của Giáo Hội, họ có thể là những người Công Giáo tốt mà vẫn có thể phò phá thai. Không thể như thế được! Không đúng! Họ nói họ có thể chấp nhận ngoại tình, tà dâm và tất cả những cái xấu xa khác mà vẫn là người Công Giáo tốt. Điều đó thật không đúng! Họ không thể! Họ nói họ có thể là những người Công Giáo tốt cho dù họ không đi xưng tội bởi vì, họ xưng với Thiên Chúa. Thiên Chúa hiểu. Họ không tin điều này hay giáo huấn kia của Giáo Hội, nhưng họ nói là họ vẫn có thể là người Công Giáo tốt. Điều đó không thể có! Họ không có thể là người Công Giáo tốt. Các bạn phải mang dấu chứng đối với chân lý của Đức Giêsu Kitô trong lòng và trong linh hồn của các bạn. Các bạn phải sửa đổi chính mình trước khi cần phải có sự sửa đổi.
Làm Chứng
Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta về bí tích hòa giải, xưng tội, khi Chúa Kitô ban quyền cho các tông đồ và nói “Tội của ai được các con tha thì tôi người ấy được tha, và tội của ai các con không tha thì tội người ấy không được tha.” Ngài đã nói rõ ràng rằng chúng ta nhận ơn tha tội qua bí tích Thống Hối. Một số người nói họ không cần điều đó. Nhiều cái đã thay đổi rồi. Các bạn nghe nói, “Tôi được nghe có linh mục ở Omaha nói là tôi không cần phải đi xưng tội nữa và cái này hay điều kia không còn coi là tội nữa, và tôi có thể làm cái gì tôi muốn.” Họ không đi xưng tội, không ăn năn thống hối tội lỗi của họ. Làm thế nào họ có thể làm chứng cho Đức Kitô ở thế gian nếu họ không thể mang Đức Kitô trong đời sống của chính họ. Làm thế nào họ có thể chiếu ánh sáng ơn thánh cho người khác khi chính họ lại sống gỉa dối, xấu xa, ngập tràn tội lỗi và qúa pha trộn với thế gian?
Và ngược lại, có một số người thường xuyên đi xưng tội. Họ đi xưng tội mỗi thứ Bảy, xưng thú tội lỗi, rước lễ ngày Chúa Nhật, rồi đến thứ Hai lại phạm cùng thứ tội. Họ nói là họ có thể đi xưng tội vào thứ Bảy tuần sau, và mỗi thứ Bảy sau đó, mà không hề nghĩ đến việc thay đổi đời sống, không hề nghĩ đến việc sửa mình chừa tội, không nghĩ đến việc là ánh sáng cho tổ quốc, chính là điều mà chúng ta được kêu gọi để làm.
Chúng ta đã được ban cho Thánh Thần, được ban cho ơn Thánh của Chúa. Nếu có điều gì phá hoại ơn thánh trong đời sống của các bạn thì hãy bứng nó đi. Bứng đi bằng cách đi xưng tội. Các bạn không cần phải giảng, các bạn không cần phải đi ra ngoài và nói tiếng lạ, các bạn không phải đi ra ngoài để biểu dương xuống đường. Bằng gương sáng của các bạn, hãy tỏ ra thế nào là sống với đầy ơn thánh của Chúa. Hãy tỏ lòng tôn kính cha mẹ. Hãy chăm lo cho con cái, hướng dẫn dạy bảo chúng, sống thật thà lương thiện trong mọi sinh hoạt.Hãy tuân giữ các giới răn. Nói cách khác, sống ngay thẳng như làm ngày nào trả xứng lương ngày đó. Tất cả những điều này nói lên cho thấy các bạn đầy tràn ơn thánh của Chúa. Bằng việc tỏ cho người khác thấy ơn thánh hoạt động nơi các bạn, các bạn có thể mang sự thay đổi đến ở nơi người khác.
Thiên Chúa đã nói rất rõ với chúng ta rằng chúng ta sẽ không lên Thiên Đàng một mình. Nếu chúng ta không dẫn người nào đó đi với mình, thì chúng ta sẽ không đi đến thiên đàng. Chúng ta dẫn linh hồn người khác lên thiên đàng với chúng ta bằng cách chúng ta sống, bằng cách chúng ta hợp tác với ơn thánh của Chúa, bằng cách chúng ta kiện toàn Thánh Linh trong chúng ta qua việc làm chứng cho chân lý của Chúa Kitô, nhờ đó những người khác có thể nhận biết. Khi những người khác nhận ra dấu về Đức Kitô nơi bạn, họ sẽ không còn phải vung tay nói, “Cái gì sai lạc với thế giới?” Họ sẽ nhìn thấy có cách phải làm có đường phải theo. Đây là những người Công Giáo làm chứng cho giáo huấn của Chúa Kitô và đó cũng là cách họ phải thực hiện. Làm chứng cho Chúa Kitô ngày hôm nay, ở trong Thánh Lễ này. Hãy cầu nguyện để Thiên Chúa tiếp tục tuôn đổ ơn phúc của Ngài trên các bạn, như Ngài muốn, và hãy cầu nguyện để Ngài ban cho các bạn sức mạnh hợp tác, chu toàn bổn phận trong bậc sống của các bạn. Và các bạn, là Giáo Hội, có thể mang giáo hội đến với thế giới.
CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI
Lm.Carôlô Hồ Bạc Xái
* 1. Quê hương thiên đàng và cuộc hành trình dương thế
Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy ? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
. Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
. Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau "Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe..."
. Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ "Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ ?" Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ "Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa".
. Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Đức mẹ "Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy ?" Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói "Từ trời xuống". 3 em liền xin "Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi". Đức Mẹ mỉm cười đáp "Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây ; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2 em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.
Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào !
Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế :
. Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ "Hỡi những người xứ Galilê sao còn mãi mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó..."
. Còn 3 ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.
. Thánh nữ Bernadette, cũng như Nữ Tu Luxia sau khi được thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết trước ; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.
Nghĩa là làm sao ? Nghĩa là : Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.
Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc Thiên Đàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ : Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật ; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kỵ nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những Lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xoá đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như : chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hoà giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những Lời Chúa dạy.
"Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mãi nhìn trời..." Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời "Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại".
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mãi mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. "Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mãi nhìn trời..." Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế : Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa.
* 2. "Củng cố lời giảng bằng những dấu lạ kèm theo"
Việc loan Tin Mừng sẽ có sức thuyết phục hơn nếu có những dấu lạ kèm theo. Những dấu lạ này không hẳn là các phép lạ lớn lao, mà còn là cách sống có sức thu hút của chúng ta.
* 3. Con đường về Trời
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói :
- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi :
- Món quà quí giá của ngươi đâu ?
Người này điềm tĩnh trả lời :
- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói :
- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất : Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
*
Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin mừng hôm nay : "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật" (Mc.16,15)
Chúa về trời là về với Chúa Cha – Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin mừng.
• Tin mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.
• Tin mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.
• Tin mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.
Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.
Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.
Chúa về trời nhưng người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ : "Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con" (Ga.17,24).
Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.
Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó.
* 4. Những cách giảng đạo
Ngày xưa, một đạo sĩ gọi 6 người đệ tử của mình lại và bảo họ hãy đi khắp nơi chiêu mộ môn đệ. Một thời gian sau, tất cả đều trở về.
- Người thứ nhất trở về với 500 môn đệ. Khi được hỏi bằng cách nào anh chiêu mộ được số môn đệ đông như thế, anh trả lời : "Con rảo khắp mọi nơi nghèo nàn và hứa sẽ chu cấp mọi nhu cầu cần thiết cho ai theo đạo của chúng ta"
- Người thứ hai đem về 400 môn đệ. Anh nói : "Con hứa ai theo đạo thì sẽ được phúc thiên đàng".
- Người thứ ba đem về 300 môn đệ. Anh nói : "Con đe dọa rằng nếu ai không theo đạo thì sẽ bị phạt trong hỏa ngục. Thế nhưng người ta không tin lắm. Cho đến một hôm con đã nguyền rủa một con chó điên khiến nó chết liền tại chỗ. Thấy thế những người này đã theo con".
- Người thứ tư đem về 200 môn đệ. Anh nói : "Con tìm đến những người đơn sơ ít học và dùng nhiều lý luận khiến họ say mê và đi theo".
- Người thứ năm đem về 100 môn đệ. Anh nói : "Đây là những người trẻ. Họ đang chờ một người lãnh đạo họ. Con đã thuyết phục họ đi theo con và họ đã theo. Con nghĩ rằng nếu mình không chiêu mộ họ thì cũng có những messia giả đến chiêu dụ họ mà thôi".
- Người thứ sáu chỉ đem về 12 môn đệ. Anh giải thích : "Con không thể gieo những hạt giống ngay mà phải chờ, vì đang là mùa đông, phải đợi đến lúc tuyết tan thì đất mới mềm và gieo mới được. Thế là con chờ. Đang lúc chờ như thế, con kết bạn với một số người. Con cố gắng sống cho họ thấy cách sống của đạo chúng ta. Và con cũng chia xẻ cuộc sống của họ. Đang khi chia xẻ cuộc sống như thế, con khám phá rằng họ rất coi trọng tự do đến nỗi nếu tước mất tự do của họ thì cũng là tước đi phẩm giá của họ. Con cũng học được nơi họ những điều tốt, chẳng hạn họ rất quảng đại và không sợ hy sinh. Con thành thật nói cho họ biết cái giá phải trả nếu muốn theo đạo chúng ta, nhưng con nhấn mạnh rằng nếu họ theo đạo chúng ta thì họ có thể làm được nhiều điếu tốt cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Xem ra những điều con nói đã làm họ cảm động. Tuy nhiên khi đến lúc phải quyết định thì chỉ có 12 người này chịu theo con".
Vị đạo sĩ khen người thứ sáu này.
Năm người trước đã giảng đạo bằng cách khai thác sự yếu đuối và sợ hãi của người ta. Những cách đó thật quá dễ, nhưng lại xâm phạm đến tự do nên người ta có theo đạo cũng vì miễn cưỡng. Còn người thứ sáu thì biết kêu gọi thiện chí bằng cách kết bạn với người ta và thuyết phục họ bằng chính gương sống của mình. Cách này tuy chậm và khó nhưng kết quả sẽ vững chắc và lâu bền. (Viết theo Flor McCarthy)
* 5. Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng
"Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc", đó là mệnh lệnh của Chúa khi Ngài từ biệt chúng ta.
Bây giờ Ngài không còn có ai trên thế gian ngoài chúng ta.
Ngài không còn tay để nâng người sa ngã ngoài tay của chúng ta.
Ngài không còn chân để đi tìm kẻ hư mất ngoài chân của chúng ta.
Ngài không còn mắt để nhìn những giọt lệ khổ đau âm thầm ngoài mắt của chúng ta.
Ngài không còn lưỡi để an ủi kẻ buồn sầu ngoài lưỡi của chúng ta.
Ngài không còn trái tim để yêu thương những người không được yêu thương ngoài trái tim của chúng ta.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con là những môn đệ nhút nhát và sợ sệt của Chúa. Xin ban cho chúng con lòng can đảm để làm chứng cho Chúa giữa thế gian, hầu Tin Mừng được rao giảng và người ta tìm được đường vào Nước của Chúa. (Flor McCarthy)
* 6. Loan Tin Mừng cho mọi loài thọï tạo
Trong bài Tin Mừng này, có một câu mà nếu đọc kỹ từng lời thì ý nghĩa rất lạ. Đức Giêsu bảo "Hãy loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo".
- "Thọ tạo" nghĩa là được Thiên Chúa tạo dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì đã được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, loài thực vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú… Tóm lại là tất cả.
- Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin Mừng cho loài người thì có thể. Còn loan báo Tin Mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được ? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin Mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin Mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển v.v.
- Rốt cuộc, loan báo Tin Mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin Mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi.
Mầu nhiệm Đức Giêsu về trời được tôn vinh bên Chúa Cha, luôn luôn là điều khích lệ và nâng đỡ cho mọi Kitô hữu còn đang tại thế. Lạy Chúa là Cha toàn năng, Chúa đã cho Đức Giêsu Kitô phục sinh và về trời, xin giúp chúng con biết sống theo lối sống của Người, để mai sau cũng được hưởng vinh quang với Người.Amen.
Thánh Ca : Chúa Lên Trời
CHỨNG TỪ VÀ VIỆC RAO GIẢNG
Cha Mark Link, S.J.
Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải công khai tuyên xưng nó”.
Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?”. Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất sung sướng được nghe anh xưng tội”. Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!”. Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con”.
***
Tinh thần làm chứng nhân của anh lính thủy quả là hơi “quá” nhiệt tình, nhưng chắc chắn anh đã có một ý nghĩ đúng đắn. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Chúa Giêsu bảo các môn đệ “Các ngươi sẽ làm chứng cho Ta đến tận cùng trái đất”. Lệnh truyền của Chúa Giêsu bao hàm tất cả chúng ta, qua Bí Tích Rửa tội, Thêm sức, tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm chứng nhân cho Chúa Giêsu. Nhưng Bí tích Rửa tội và Thêm sức còn đòi hỏi chúng ta đi xa hơn, chúng yêu cầu chúng ta nhiều hơn nữa. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Hãy công bố Tin Mừng cho mọi tạo vật”. Đó cũng là điều mà tất cả chúng ta phải thi hành.
Việc công bố Tin Mừng về Chúa Giêsu không dành riêng cho các linh mục hay các tu sĩ. Đó là bổn phận mà tất cả chúng ta đều phải thực hiện sau khi đã nhận lãnh phép Rửa tội và Thêm sức. Điều này gợi lên một vấn nạn: Một người trung bình có thể rao giảng như thế nào về Chúa Giêsu trong thế giới hôm nay?
Tôi xin chia sẻ với quí vị câu chuyện nói về cách thế mà một người đã dùng để trả lời cho câu hỏi ấy.
Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn. Chỉ tội chàng ta nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy là khó khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia chàng nảy ra một ý kiến. Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin công giáo. Vì vậy chàng quyết định dành riêng một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn sách ấy. Ruddel để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta thường cầm chúng lên đọc. Chẳng hạn, ở những phòng chờ đợi và tiếp khách.
Một hôm, một thiếu phụ vốn là bạn của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết cô ấy đã trở lại đạo thế nào và chồng cô đã trở về với Giáo hội thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một quyển sách nhỏ mà tôi đã tìm thấy tại phòng chờ đợi ở bệnh viện”. Anh chị em có thể tưởng tượng được chàng trai đã phấn khởi biết bao khi biết được tầm ảnh hưỏng mà chỉ một trong những tập sách nhỏ của chàng đã tạo ra.
***
Câu chuyện của Ruddell Morris nhấn mạnh một điều quan trọng trong việc công bố Tin Mừng: Có nhiều cách để công bố Tin Mừng. Chúng ta có thể công bố một cách trực tiếp như Ruddell đã làm. Hoặc “công bố” một cách gián tiếp, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện hoặc gíup đỡ tài chính cho các hoạt động truyền giáo của Giáo hội.
Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng nhất của toàn năm phụng vụ. Đó chính là lý do khiến chúng ta mừng lễ Thăng Thiên với hình ảnh chuyền gậy từ vận động viên này tới vận động viên khác trong một số cuộc chạy đua tiếp sức.
Cũng ngay này, cách đây hơn 2000 năm, Đức Giêsu đã chuyền chiếc gậy tượng trưng công việc của Ngài cho các môn đệ để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Chúng ta có thể tiếp tục công việc ấy bằng cách làm chứng cho đức tin của mình như anh lính thủy kia đã làm và công bố đức tin ấy cho kẻ khác như Ruddell đã làm. Đây là một trách nhiệm hai mặt mà lễ Thăng Thiên đặt ra cho chúng ta. Mỗi người chúng ta phải chu toàn trách nhiệm này theo cách thức mà Chúa Thánh Thần linh ứng cho từng người.
Để kết thúc, chúng ta hãy nhắc lại những lời Đức Giêsu truyền dạy cho các môn đệ Ngài trong bài giảng trên núi. Chúng có một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta trong ánh sáng của ngày lễ hôm nay.
“Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là một thành phố xây trên một ngọn đồi nên không thể giấu được….
Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5: 13-16)
Thánh Ca : Tình Yêu Thiên Chúa
NGƯỚC MẮT NHÌN TRỜI
T.G.M. Ngô Quang Kiệt
Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.
Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất. Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.
Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ. Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy. Hôm nay , Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người. Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời. Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc. Tuy nhiên , người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.
Nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thuỵ Kha đã dành khá nhiều tâm huyết của cuộc đời mình để nghiên cứu về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà tiên tri số một trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Năm 1991, ông đã làm bộ phim tài liệu "Nguyễn Bỉnh Khiêm - Cây đại thụ rợp bóng 500 năm". Giải thưởng Hội hữu nghị Việt Nhật 1992.
***
Trong lịch sử Việt Nam, nhà tiên tri đầu tiên được mọi người biết đến là Thiền sư Vạn Hạnh (938-1025) với những câu sấm về việc xuất hiện nhà Lý. Hơn 500 năm sau, xuất hiện Trạng Trình - nhà tiên tri thứ hai. Ở Pháp, cùng thời với Trạng Trình có nhà tiên tri Nostradams (1503-1566) sinh trưởng ở thành phố Saint Re'my thuộc xứ Provence. Toàn bộ sấm ngữ của ông này đã được xuất bản tại Lyon năm 1555 dưới tên gọi Les centurtes (Những thế kỷ). Năm 1966 kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông, tác phẩm này được in lại tại Nhà Xuất Bản Pierre Delpont.
Trạng Trình sinh trước (1491) và mất sau (1586). Năm 1986, kỷ niệm 400 năm ngày mất của Trạng Trình, người ta hay nhắc tới câu sấm tiên đoán về sự trở về của ông: "Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi - Sông Hàn nối lại thì tôi lại về".
Năm 1991, kỷ niệm 500 năm ngày sinh ông, đã có một lễ kỷ niệm trọng thể của Nhà nước diễn ra tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Năm nay, kỷ niệm 520 năm ngày sinh ông (1491-2011), chưa biết chúng ta sẽ làm gì, nhưng vào dịp cuối năm cũ (2010), cụ đã "gặp" nhà ngoại cảm tên Phương người Giồng Trôm, Bến Tre và chỉ cho ông tìm ra mộ thật của mình với ước muốn để cháu con và hôm nay biết đúng chỗ và thờ cúng. Theo chỉ dẫn của cụ, nhà ngoại cảm đã tìm được mộ cụ ở làng Triền Am, Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng.
Từ nhiều đời nay, những câu sấm tiên tri của Trạng Trình đã giúp cho bao chính khách biết việc mà xuất xử đúng đắn. Nhờ tài kiệt xuất này, ông thật xứng đáng với câu đối đã ghi ở đền thờ tại Bạch Vân Am: "Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng - Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu" (Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng - Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu).
Sinh thời, Trạng Trình cùng bạn thần đồng Bùi Ngu Dân (thường gọi là Bùi Công) thường rủ nhau bàn định bấm đoán về vận nước. Hay tin Mạc Đăng Dung muốn thoán ngôi vua Lê, cặp tri kỷ cùng nhau đoán định. Bùi Công viết vào lòng tay bốn câu ngũ ngôn: "Mộc đinh niên đinh khẩu - Bát đạo nhập mộc văn - Băng tâm đại đức vũ - Thiên hạ bán rã bình" (Phương Đông Mạc lên ngôi - Định đoạt nên danh tiếng - Thì tám hướng sẽ loạn - Những người luôn trung thành - đứng lên cầm vũ khí - Chỉ nửa được thái bình). Còn Trạng Trình thì viết vào lòng tay thất ngôn tứ tuyệt: "Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh - Can qua xứ khổ đao binh - Mã đề dương cước anh hùng tận - Thân dậu niên lai kiến thái bình" (Cuối năm rồng, đầu năm rắn xảy ra chiến tranh - Nạn binh đao ở khắp mọi nơi - Cuối năm ngựa, đầu năm dê anh hùng mất hết - Qua năm khỉ, năm gà sẽ thái bình).
Trong lịch sử quả thật, Mạc Đăng Dung đã thực hiện lập Lê Cung Hoàng lên ngôi, sau đó sai giết Lê Chiêu Tông vào năm sau năm Ất Dậu (1525) và đoạt ngôi vào năm Đinh Hợi (1527) lập ra triều Mạc. Bốn câu này khi vào tuổi già, Trạng Trình ghép vào trong bài sấm ký dài của mình thì lại được dùng để nhận định vào thời đại của chúng ta từ năm Canh Thìn (1940) đến năm Ất Dậu (1945).
Vào những năm Việt Nam hết sức rối ren giữa các thế lực nhà Lê với nhà Mạc, giữa Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng, chỉ với 6 câu thơ tiên tri, Trạng Trình đã thu xếp được các thế lực vào đúng nơi trên đất nước khiến cho dân đỡ lầm than khổ sở trong nạn binh đao. Khi Nguyễn Hoàng xin ý kiến, ông đã tặng cho Nguyễn Hoàng hai câu thơ: "Hoành Sơn nhất đái-Vạn đại dung thân" (có bản đề là: "Khả dĩ dung thân"). Ý rằng hãy tìm đường vào phía Nam dựa vào dãy Trường Sơn mà tồn tại). Nguyễn Hoàng nghe theo xin Trịnh Kiểm vào trấn giữ từ Đèo Ngang trở vào. Khi người nhà Trịnh Kiểm hỏi ông về vị trí của mình, có nên thoán ngôi vua Lê không, ông trả lời: "Chịu khó mà thắp nhang- thờ Phật thì ăn oản" (Có nghĩa rằng phải thờ nhà Lê thì có lộc). Trước khi ông mất, nhà Mạc xin ý kiến tồn tại thế nào, ông đã đọc hai câu thơ: "Cao Bằng tàng tại- tam đại tồn cô" (nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ sống thêm được ba đời nữa). Nhà Mạc đã theo kế ấy và đã tồn tại được thêm ba đời nữa thật.
Sau khi ông mất, những lời sấm vẫn được chứng nghiệm ở đời sau. Có giai thoại nói rằng: vào thời Tự Đức, bỗng nhiên quan quân kéo về đập phá nhà thờ Quan Trạng. Hỏi ra mới hay vì Tự Đức quá tức giận bởi câu sấm: "Gia Long tam đại-Vĩnh Lại vi vương". Lời sấm truyền này nói rằng tự Đức không phải dòng giống Gia Long mà là con của Quận Quế- Người Vĩnh Lạc (Vĩnh Bảo hôm nay).
Lại có giai thoại kể rõ, Quan Thượng Tứ - Tổng Đốc Hải Dương có lần về thăm quê Trạng Trình. Khi đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ lớn đang có nguy cơ sụp lở, Thượng Tứ xem xét cẩn thận, thấy Trạng Trình là thầy rất "cao tay" sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này. Sau khi bàn bạc với con cháu Trạng Trình, Thượng Tứ quyết để lại ngôi mộ vào chỗ khác, ngầm sửa lại lỗi xưa của Trạng Trình. Khi đào đến gần hộp quách, thấy có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm bia khắc hai dòng chữ: "Bát thập niên tiền khi chung vũ tả - Bát thập niên hậu khí nhập ư trung" (Tám mươi năm trước khí tốt bên trái - Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong).
Những giai thoại như trên nhiều và rì rầm ở khắp nơi. Nào là giai thoại cha con thằng Khả đánh đổ bia. Nào là giai thoại thằng Trứ (Nguyễn Công Trứ) phá đền... đều là những câu sấm lẻ Trạng Trình thốt nhiên nói ra. Khi về già, Trạng Trình mới làm hẳn một bài sấm ký dài lưu truyền lại với mục đích như câu cảm đề đã ghi: "Bí truyền cho con cháu- Dành hậu thế xem chơi". Bài sấm ký nói về những biến thiên trong lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng cho đến hôm nay.
Phần từ đầu đến khi Trạng Trình quy tiên thì không nhiều, chủ yếu là từ sau khi ông qua đời cho đến hôm nay. Bài sấm rất dài nhưng có đoạn gần cuối có vẻ ứng với thời đại ngày nay : "Phân phân tùng bách khởi- Nhiễu nhiễu xuất đông chinh - Bảo Giang thiên tử xuất - Bất chiến tự nhiên thành".
Mọi ý sâu xa xin để người đời giải đáp !
Mời các bạn theo dõi bộ phim lịch sử về "Trạng Trình - Nhà Tiên Tri Họ Nguyễn" , xem theo Playlist YouTube tại đây
Xin mời các bạn theo dõi video suy niệm Lời Chúa ngày Chúa Nhật VI Phục Sinh .
CUỘC SỐNG YÊU THƯƠNG
Lm.Carôlô Hồ Bạc Xái
* 1. "Ðâu có tình yêu thương ở đấy có Ðức Chúa Trời"
Trong dãy núi Alps ở Thuỵ Sĩ có một ngôi làng, và trong làng có một nhà thờ nhỏ. Mặc dù nhà thờ này chẳng có một tác phẩm nghệ thuật nào cả nhưng lại được dân làng quý mến một cách hết sức đặc biệt. Câu chuyện sau đây sẽ cho biết lý do.
Có hai anh em cùng canh tác mảnh vườn của gia đình và chia lợi tức đồng đều cho nhau. Người anh đã có gia đình, người em còn độc thân. Năm đó thời tiết khắc nghiệt nên thu hoạch rất kém. Một hôm, người em tự nhủ: "Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì độc thân, còn anh mình thì còn phải lo cho gia đình". Thế là mỗi đêm người em vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người anh. Trong lúc đó, người anh cũng tự nhủ: "Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì đã có gia đình đỡ đần, còn em mình thì độc thân không ai giúp đỡ". Thế là mỗi đêm người anh vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người em. Ðêm nào hai anh em cũng làm như thế. Nhưng lạ thay ai cũng thấy kho lúa nhà mình chẳng vơi đi tí nào cả. Một đêm kia, hai anh em gặp nhau giữa miếng ruộng. Họ cảm động quá, vất bao lúa xuống đất và ôm nhau khóc. Thình lình, một tiếng từ trời vọng xuống: "Tại đây Ta sẽ xây nhà thờ của Ta, vì nơi nào người ta thương yêu nhau thì Ta sẽ ngự ở đó". Thế là có một ngôi nhà thờ mọc lên tại nơi đó.
* 2. Thiên Chúa là tình yêu
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một tu sĩ nổi tiếng là đạo đức và hỏi:
- Ngài có tin Thiên Chúa không?
- Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
- Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế?
- Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.
- Nhưng làm sao mà cảm nhận được như thế?
- Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.
Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi, rồi hỏi tiếp:
- Xin Ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào?
- Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Ðó là sự thật.
Vị tu sĩ trên chẳng nói gì khác hơn điều Thánh Gioan viết trong bài đọc II hôm nay: "Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu"
Thực vậy, Tình yêu là điều kiện tiên quyết để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt là hiểu biết Thiên Chúa. Van Gogh nói: "Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yêu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa".
Tình yêu là người thầy tốt nhất chúng ta có. Nhưng người thầy này không tự đến, chúng ta phải cực nhọc tìm kiếm. Thông thường phải tốn nhiều năm nỗ lực cách kiên trì người ta mới đạt được đến khả năng yêu thương.
Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc biết Chúa và việc yêu Chúa. Không yêu Chúa thì không biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì bực thẳm được lấp đầy ngay. Yêu là biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa, cũng như nơi nào có Chúa thì nơi đó có tình yêu. Nhưng nên lưu ý: Yêu không phải là chứng minh hay là giải thích.
Vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, cho nên mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương. Tuy nhiên để được như thế thì con tim chúng ta phải lành mạnh. Thực tế là con tim chúng ta dễ bị những chứng bệnh như lạnh nhạt, trống rỗng, hẹp hòi. Chúng ta cần phải chữa trị những chứng bệnh đó để con tim chúng ta lành mạnh hầu có thể sinh những hoa trái tình yêu. (Viết theo Flor McCarthy).
* 3. Yêu thương và tôn trọng
Nhà văn nữ Harriet Beecher Stove có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề "Túp lều Bác Tôm" kể chuyện đời của một người nô lệ da đen tên là Tôm. Chủ của bác Tôm là một trong số rất ít những người chủ da trắng biết thương yêu những người nô lệ da đen của mình. Ðáp lại Bác Tôm cũng rất yêu thương chủ và tận tụy hết lòng phục vụ chủ. Nhưng ông chủ này vì làm ăn thua lỗ nên đã nợ một món tiền rất lớn. Một tên da trắng khác chuyên buôn bán nô lệ đã tìm cách nắm được các giấy nợ và dùng chúng để làm áp lực với ông Senbi, tên của ông chủ da trắng nhân hậu ấy. Hắn buộc ông phải bán bác Tôm cho hắn để trừ nợ. Lúc đầu ông Senbi nhất định không chịu. Nhưng vì tên lái buôn hăm doạ sẽ tịch thu tất cả tài sản của ông, nên cuối cùng ông đành phải bán bác Tôm. Sau đó cuộc đời bác Tôm đã phải lao đao lận đận chịu đủ thứ khổ sở và cuối cùng phải chết.
Câu chuyện này đã giúp ta hiểu rõ hơn bài Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu nói "Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con". Trong câu này, có 3 chữ then chốt, là: yêu thương, nhau, và như.
•Chữ thứ nhất yêu thương thì chúng ta dễ hiểu, bởi vì Ðức Giêsu luôn luôn dạy chúng ta phải sống yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất của Chúa, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác.
•Chữ thứ hai: nhau. Yêu thương nhau là yêu thương ai? Ðây không phải là câu Chúa nói với hai vợ chồng hay với một cặp tình nhân, người này yêu thương người kia và người kia yêu thương người này. Nhưng Chúa nói với tất cả mọi người. Vì thế ta không nên hiểu chữ nhau này theo nghĩa hẹp, chỉ nhắm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng thực tế, chúng ta chỉ mở rộng con tim để yêu thương một số người rất ít thôi, có thể đếm trên đầu ngón tay, như: cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bạn bè thân thiết, và người yêu của chúng ta. Chỉ thế thôi. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn ghét nữa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như giới răn Chúa đã dạy?
•Chữ thứ ba là chữ như. Ðây là chữ quan trọng nhất trong câu. Nếu muốn yêu thương tất cả mọi người, thì chúng ta phải làm như Ðức Giêsu đã làm. Vậy, Ðức Giêsu đã làm như thế nào? Ta hãy đọc tiếp đoạn Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là bạn hữu của Thầy". Ðức Giêsu là Chúa, là Thầy; còn các môn đệ là người, là đệ tử. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được thôi. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn có thể yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Ðức Giêsu đã yêu thương.
Có những người mà tự nhiên ta cảm thấy xa cách, khó ưa và không thể nào yêu thương được. Chẳng hạn như trong chế độ buôn bán nô lệ, rất khó có được tình yêu thương giữa một người da trắng tự do và một người da đen nô lệ. Những người da trắng thời đó coi những người nô lệ da đen như một con vật biết nói, bắt họ phải làm việc cho mình, đánh đập họ, khi chán họ thì bán cho người khác, khi tức giận thì còn có thể giết họ bỏ. Thời đó người da trắng không thể nào yêu thương người da đen. Tại sao? Vì họ khinh miệt người da đen, nói khác đi, họ không tôn trọng người da đen. Như Bác Tôm là một người da đen, bác rất tốt, bác làm việc giỏi, bác lại có lòng đạo đức. Thế nhưng những đức tính ấy không khơi lên lòng tôn trọng và do đó lòng yêu thương của tên lái buôn nọ. Ngược lại, bác càng tốt càng giỏi chừng nào thì hắn càng muốn bắt Bác đi làm món hàng mua bán chừng nấy, vì chính những đức tính ấy càng làm cho bác thành một món hàng cao giá. Còn đối với ông Senbi, tuy là một chủ da trắng nhưng lại yêu thương bác Tôm là một người nô lệ da đen, tại sao? Vì ông Senbi biết đánh giá đúng những đức tính của Bác. Ông không Tôm bằng thằng, bằng mày, mà gọi bằng Bác. Ông không coi Tôm là tôi mọi nhưng coi như người nhà. Ðối lại Tôm cũng rất thương ông Senbi. Người ta đã xúi bác Tôm trốn đi trước khi bị tên lái buôn bắt đi bán. Nhưng Bác đã từ chối "Nếu ông chủ buộc lòng phải bán tôi để khỏi phải bán tất cả những người khác và để khỏi phải phá sản thì thôi cũng được". Tóm lại, người da trắng và người da đen này thương nhau vì hai người đã biết rõ tấm lòng của nhau, vì họ tôn trọng nhau.
Trong truyện "Túp lều Bác Tôm", ta thấy hai điều: thứ nhất, tên lái buôn da trắng không thể nào yêu thương được người nô lệ da đen là vì không có lòng tôn trọng người ấy; thứ hai, giữa bác Tôm và ông chủ da trắng có tình thương yêu nhau là vì họ tôn trọng nhau. Như vậy, tôn trọng phá tan mọi hàng rào ngăn cách để cho người ta đến gần nhau và tình yêu thương nhau. Hơn nữa, tôn trọng còn là cái nền tảng vững chắc giúp cho tình yêu của những người đã yêu thương nhau lại càng bền vững hơn.
Ðến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận thực hành:
•Chúng ta đang thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn bè, chồng vợ, người yêu của mình. Ðể cho những tình yêu thương ấy được bền vững, chúng ta hãy biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta, dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải giống như mình. Ta phải tôn trọng cái quyền họ có quyền khác với ta,. Có thế mới tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau.
•Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yêu thương. Tuân giữ giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ: tôn trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu thương là yêu thương chính con người đó, yêu thương chính nhân phẩm đó.
Ðức Giêsu nói "Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con". Theo Lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi người.
* 4. Vài suy nghĩ vụn vặt về tình yêu
a. "Yêu thương", "Tình gia đình", "Huynh đệ", "Chia xẻ", "Hiệp thông" v. v. là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Chính con cũng rất nhiều lần nói như thế. Từ nay con muốn nói những chữ ấy một cách thật lòng, nhất là nói với những người cùng niềm, cùng lý tưởng với con.
b. Yêu thương, nếu chỉ là một cảm giác dễ chịu thì chưa phải là tình yêu thật. Tình yêu thật là phải cho đi, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng đúng nghĩa. Bởi thế Ðức Giêsu nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình"
c. "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình". Câu Tin Mừng này khiến tôi liên tưởng tới một câu chuyện tôi đã đọc hồi còn nhỏ, tựa đề "Anh phải sống": hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì "em phải sống để lo các con". Người vợ cũng bảo chồng "Anh phải sống". Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
* 5. Ở lại trong tình thương
Ðức Giêsu bảo: "Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy".
•Chữ "ở lại" mà Ðức Giêsu dùng khiến tôi hình dung tình thương của Chúa như một mái nhà. Mái nhà tình thương này luôn có chỗ cho tôi. Chúa bảo tôi hãy ở trong đó mãi, đừng bỏ nhà ra đi. Nghĩa là Chúa luôn thương tôi, chỉ có tôi là có khi không ở trong tình thương đó.
•Ở trong mái nhà tình thương của Chúa, khi tôi đói thì được ăn, khi khát thì được uống, khi mệt mỏi thì có thể nghỉ ngơi, khi bệnh tật thì được chăm sóc, khi buồn phiền thì có người an ủi...
•Chúa khuyên tôi ở lại vì Ngài biết tôi có thể bỏ đi. Tôi bỏ đi khi tôi không còn coi đó là nhà mình nữa, tôi tìm một chỗ khác mà tôi nghĩ là nhà mình; Tôi bỏ đi khi tôi tưởng là trong nhà đó người ta không thương tôi nữa do tôi đã lầm lỡ thế nào đó.
•Nhưng khi Chúa bảo tôi "hãy ở lại" nghĩa là Ngài khẳng định rằng dù tôi thế nào đi nữa thì tôi vẫn được Ngài thương yêu, và không chỗ nào khác ở ngoài là nhà thực sự của tôi.
* 6. Như Thầy đã yêu.
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 16-9-1999 đã đưa tin: "10.645 người nghèo đã khỏi mù". Theo Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo TP. HCM trong năm 1999 , các đoàn phẫu thuật ghép thủy tinh thể nhân tạo của thành phố và các quận huyện đã đem lại ánh sáng cho 10.645 người nghèo bị mù (đạt 88% kế hoạch 1999). Trong tháng 8-1999 đã có 108 lượt tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đóng góp hơn 2 tỷ đồng ủng hộ quỉ hội (tăng 205% so với tháng 7-1999). Hội cũng đã tài trợ cho Bệnh viện Nhi Ðồng 2 trên 79,5 triệu đồng giúp phẫu thuật cho 21 trẻ em không có hậu môn bẩm sinh, và giúp Trung Tâm Răng Hàm Mặt phẫu thuật cho 178 trẻ em bị sứt môi, hở hàm ếch tại Bình Ðịnh.
*
Hầu như đọc bất cứ tờ báo nào, chúng ta cũng thấy nhan nhản các tổ chức, cá nhân đầy lòng quảng đại từ tâm. Những tâm hồn biết chăm lo cho người nghèo đói, bất hạnh. Những con tim tràn đầy yêu thương dã cùng nhịp đập với Thầy Giêsu. Những tấm lòng mau mắn đáp lại tiếng mời gọi tha thiết của Người: "Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con" (Ga. 15, 12).
Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể để bày tỏ tình yêu của Ngôi Cha dành cho con người, thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại hoàn toàn thay đổi: Không còn là Tạo hóa và thụ tạo, không còn là Thượng đế và phàm nhân, không còn là Chủ ông và tôi tớ, nhưng chính là "Bạn hữu thân tình".
Tình yêu đã khiến Thiên Chúa hạ mình xuống với con người, cảm thông và chia sẻ với thân phận thụ tạo: "Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết" (Ga. 15, 15). Tình yêu đó đã đến chỗ tuyệt đỉnh, đến nỗi thánh Gioan viết: "Người đã yêu thương họ đến cùng" (Ga. 13, 1). Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu cho đến chết, và chết trên thập giá. Thánh Bênađô dạy: "Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ".
Nguồn tình yêu ấy phát xuất từ Cha xuống Con, và không dừng lại như nước ao tù, nhưng luân chuyển đến mọi trái tim con người trên toàn thế giới. Nếu tình yêu đã liên kết chúng ta với Chúa, thì cũng chính tình yêu ấy sẽ liên kết cha lại với nhau: "Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con" (Ga. 15, 12), vẫn biết rằng, con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức "Như Thầy đã yêu". Nhưng lời mời này vẫn giục giã chúng ta hướng lên mãi theo đường Thầy đã đi.
Ðức Gioan Phaolô II trong Thông điệp Ánh Sáng Rạng Ngời Chân Lý, số 20 viết: "Chữ "như" này đòi hỏi phải bắt chước Ðức Giêsu, tình yêu của Người, mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể Chữ "như" cũng chỉ mức độ mà Ðức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy.
Thế giới ngày nay khao khát tình yêu đích thực. Người tín hữu Kitô phải là nhân chứng của tình yêu ấy. Chúng ta không có dịp để chết cho tha nhân như Ðức Kitô, nhưng chúng ta có rất nhiều dịp để sống cho tha nhân. Sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày. Chết không đổ máu, nhưng đổ mồ hôi và nước mắt. Chết không chỉ một lần, nhưng chết dần chết mòn cho hạnh phúc của tha nhân, Kahil Gibran viết: "Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi".
*
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng chúng con đáp lại chẳng được bao nhiêu. Chúa đã đặt tha nhân bên cạnh chúng con, để chúng con có thể làm cho họ điều mà chúng con không thể làm cho Chúa. Xin cho chúng con nhận ra khuôn mặt Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con.(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
Lạy Chúa , dấu chỉ chúng ta sống hiệp thông với Ðức Giêsu là tuân giữ giới răn yêu thương mà Người đã trối lại. Chúng con được hiệp thông với Chúa nhờ lời Chúa và Thánh Thể Chúa, xin giúp chúng con biết sinh hoa kết quả trong việc tha thứ giúp đỡ mọi người, để chúng con trở thành chứng nhân tình yêu Chúa cho mọi người.Amen.
Thánh Ca : Tình Chúa Yêu Con
PHÉP LẠ CỦA TÌNH YÊU
Cha Mark Link, S.J.
Cách đây mấy năm tập san Reader’s Digest có thuật lại một câu chuyện cảm động về một em bé trong bệnh viện Milwaukee. Em này bị mù, đần độn, lại còn bị liệt não nữa. Em chỉ khá hơn loài thảo mộc một chút là biết đáp ứng lại âm thanh và sự ve vuốt mà thôi. Cha mẹ em đã bỏ rơi em. Nhưng bệnh viện cũng chả biết xử lý thế nào với trường hợp của em. Thế rồi có một người nhớ đến May Lempke, bà y tá 52 tuổi sống gần đấy. Bà nầy đã từng nuôi nấng năm đứa con của chính mình, nên bà sẽ biết cách chăm sóc cho một đứa trẻ như thế. Họ yêu cầu bà chăm sóc đứa bé và bảo: "Thằng bé có lẽ sẽ chết yểu!". Bà May trả lời: "Nếu tôi chăm sóc đứa bé, nó sẽ không chết yểu đâu, và tôi rất sung sướng được chăm sóc cho nó".
Thế là bà May đặt tên cho cậu bé là Leslie. Chăm sóc cho cậu bé quả thật không dễ dàng chút nào. Ngày nào bà cũng phải xoa bóp toàn thân đứa bé, bà đã cầu nguyện cho nó, đã khóc vì nó, bà đã đặt đôi tay nó lên những giọt lệ của bà. Một hôm, có người nói với bà: "Tại sao bà không gởi đứa bé ấy vào viện? Nó chỉ làm phí cuộc đời của bà thôi?
Leslie càng lớn thì càng có nhiều vấn đề phải đặt ra cho bà May. Bà phải giữ nó chặt vào một chiếc ghế để nó khỏi bị té xuống. Thời gian trôi qua, năm mười, mười lăm năm. Mãi đến khi Leslie 16 tuổi, bà May mới có thể tập cho nó đứng một mình được. Suốt thời gian đó, bà May vẫn tiếp tục yêu thương và cầu nguyện cho cậu bé. Ngoài ra bà còn kể cho cậu bé nghe những mẩu chuyện về Chúa Giêsu dù xem ra cậu chẳng nghe được tiếng bà.
Thế rồi một ngày nọ, bà May chợt nhận thấy Leslie dùng ngón tay của mình búng vào một sợi dây căng thẳng trên một gói đồ. Bà tự hỏi; điều ấy có ý nghĩa gì? biết đâu Leslie lại nhạy cảm với âm nhạc chăng? Và bà May bắt đầu cho Leslie nghe âm nhạc. Bà chơi đủ loại hình âm nhạc mà bà tưởng tượng ra được với hy vọng có một loại nào đó có thể lôi cuốn cậu bé. Cuối cùng, bà May và chồng mua được một chiếc dương cầm cũ kỹ. Họ đặt nó vào giường ngủ của Lislie. Bà May cầm những ngón tay của Leslie đặt vào tay bà và tập cho cậu bé biết cách nhấn phím xuống, nhưng xem ra cậu ta chả hiểu.
Thế rồi vào một đêm đông năm 1971, bà May bừng thức giấc vì nghe có tiếng đờn của ai đó đang chơi bản hoà tấu dương cầm số 1 của Tchaikovsky. Bà lay lay chồng đánh thức ông dậy, và hỏi xem ông có quên tắt radio không. Ông ta nói rằng không, nhưng họ quyết định tốt hơn là nên xem xét lại. Và họ khám phá ra một điều vượt khỏi mọi giấc mơ kỳ quái nhất của họ. Cậu Leslie đang ngồi tại chiếc dương cầm. Cậu đang mỉm cười và chơi đàn một cách ngẫu hứng không thể nào tin được đây là sự thật!
Trước đây Leslie chưa bao giờ bước ra khỏi giường một mình. Trước đây cậu bé chưa bao giờ tự mình ngồi vào chiếc dương cầm được, cậu cũng chưa bao giờ tự dùng tay ấn được vào phím đàn. Thế mà bây giờ đây cậu lại đang chơi đàn tuyệt vời như thế! Bà May vội quì gối xuống và thốt lên: "Lạy Chúa! Con xin cảm tạ Ngài, Ngài đã không bỏ quên Leslie".
Chẳng bao lâu, Leslie bắt đầu kiếm sống bằng cây dương cầm. Cậu chơi được nhạc cổ điển, nhạc đồng quê miền tây, nhạc trữ tình, nhạc dạo và cả nhạc Rock nữa. Hoàn toàn không thể nào tin nổi. Tất cả những bài nhạc bà May đã từng chơi cho cậu nghe đều tồn trữ trong óc cậu và giờ đây tuôn trào ra trên phím dương cầm qua đôi tay cậu. Giờ đây ở tuổi 28, Leslie bắt đầu nói chuyện. Tuy không thể đối thoại lâu giờ. Nhưng cậu có thể đặt câu hỏi, trả lời những câu đơn giản và phát biểu được những lời phê bình ngắn gọn. Chẳng hạn, một buổi tối kia, đang xem một vở hài kịch trên truyền hình, cậu cảm thấy cuộc đối thoại chán ngắt, cậu bèn nói: "Tốt hơn là chúng ta nên tắt nó đi, cả bọn chỉ toàn là lũ điên!".
Dạo này, Leslie chơi nhạc hoà tấu cho những ca đoàn nhà thờ, cho các cơ quan dân sự, cho các nạn nhân liệt não và cha mẹ họ, cậu còn xuất hiện cả trên đài truyền hình quốc gia nữa! Các bác sĩ mô tả Leslie như là một người thông thái bị mắc một loại tâm bệnh, nghĩa là một người chậm phát triển về trí tuệ do tổn thất nơi não nhưng lại cực kỳ tài năng. Họ không thể cắt nghĩa được hiện tượng dị thường này cho dù họ biết về nó gần 200 năm rồi. Bà May Lempke cũng không thể cắt nghĩa được điều ấy nhưng bà biết chắc rằng nhờ tình yêu mà tài năng ấy được khai mở.
Chúng ta cần đọc đi đọc lại nhiều lần câu chuyện của bà May Lempke với những gì bà đã làm được cho Leslie nhờ tình thương không mệt mỏi của bà. Nó đặc biệt thích hợp với chúng ta ngày nay vì ba lý do;
Thứ nhất, bằng một cốt chuyện gây cảm động, câu chuyện cụ thể hoá sứ điệp hàm chứa trong các bài đọc hôm nay, được gọi là giáo huấn của Đức Giêsu về việc yêu thương nhau.
Thứ hai, nó đã cụ thể hoá thành một cốt chuyện lý do tại sao chúng ta lại dành ngày hôm nay để làm Ngày Cho Mẹ, bởi vì, thông thừơng, các bà mẹ sống lời Đức Giêsu dạy về tình thương một cách kiên nhẫn và trung thành hơn bất cứ nhóm người nào khác.
Sau cùng, câu chuyện cũng cụ thể hoá năng lực kinh khủng của tình yêu. Những gì mà bà May đã làm vì tình yêu cho Leslie qủa thật là lạ lùng. Đó chính là những gì Đức Giêsu đòi hỏi phải có cho một tình yêu thương đích thực. Đó là một phương cách để tạo nên những phép lạ trong đời sống của những người thuộc thời đại này, đúng như cách Đức Giêsu đã tạo nên những phép lạ trong đời sống của những người thuộc thời đại Ngài.
Qua tình yêu, Thiên Chúa đã để chúng ta tùy nghi sử dụng cái năng lực mãnh liệt nhất, trên thế gian này, đó là thứ năng lực mà mọi tiền của trên thế gian không thể mua được. Đó là thứ năng lực mà mọi tri thức trên thế gian không thể tạo ra được. Đó là thứ năng lực mà mọi lãnh tụ trên thế giới không thể chiếm hữu được. Đó cũng là thứ năng lực mà mọi đạo quân trên trần thế không thể tập trung lại được. Và kiều kỳ diệu hơn nữa, Tình yêu là năng lực mà mọi người đều có.
Bất chấp nam hay nữ
Bất kể thuộc tôn giáo nào
Bất kể thuộc quốc tịch nào
Bất kể được giáo dục theo phương pháp nào.
Tình yêu chẳng dành riêng cho người khoẻ mạnh
Cũng chẳng dành riêng cho người giàu có
Cũng chẳng dành riêng cho kẻ khôn ngoan
Cũng chẳng dành riêng cho người danh giá.
Tình yêu dành cho tất cả mọi người
Tình yêu làm cho tất cả chúng ta bình đẳng
trước mặt Thiên Chúa và bình đẳng đối với nhau.
Đây chính là Tin Mừng chứa đựng trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay. Đây là Tin Mừng có khả năng biến đổi thế giới chúng ta một cách tuyệt hảo chẳng khác nào tình yêu của bà May Lempke đã biến đổi thế giới của Leslie. Đây chính là Tin Mừng mà chúng ta phải rao to từ trên mái nhà và sống nó thật trọn vẹn.
Và nếu chúng ta là được thế, chúng ta cũng có thể làm được những phép lạ bằng tình yêu của chúng ta ngay trong kiếp sống này y như Đức Giêsu đã làm nên những phép lạ nhờ vào tình yêu của Ngài trong thời gian Ngài sống trên dương thế.
Thánh Ca : Chúa Không Lầm
YÊU THƯƠNG NHAU
Msgr. Edward Peter Browne
L. M. Gioan Trần Khả chuyển dịch
Trong Anh Ngữ, một trong những từ ngữ được dùng nhiều nhất, và cũng dễ sai lầm và dễ lạm dụng nhất đó là từ ngữ “yêu.” Người ta nói “tôi yêu kem vanila.” Bạn không thực sự yêu kem vanila, bạn thích kem vanila. Hoặc bạn yêu bông cải xanh. Không phải thế, bạn không yêu bông cải xanh. Bạn có thể còn không thích nó nữa là khác.
Nhưng từ ngữ “yêu” thường bị dùng sai trong kiểu nói như thế và người ta thực sự không có ý nói như vậy. Nó bị lạm dụng. Johnny gặp Susie, cả hai đều 15 tuổi, và họ yêu nhau đắm đuối trong buổi dạ hội bế giảng. Hoặc, tôi thường gặp những cặp chung sống ngoài hôn nhân. “Các bạn đã sống chung với nhau bao lâu rồi?” “Ba năm rồi.” “Tại sao các bạn lại sống như thế?” “Ô, tại vì chúng tôi yêu nhau.” “Ô, tại sao các bạn không cưới nhau đi?” “Chúng tôi chưa sẵn sàng.” Như thế không phải là yêu. Đó là dục tình.
Có nhiều điều nhảm nhí vô lý trên đài phát thanh và truyền hình trong tuần vửa qua nói về một người tên là Ellen, một phụ nữ tự xưng là người thích người đồng tính. Cô được phỏng vấn trên chương trình tin tức với người yêu của cô. Đó không phải là yêu, mà là loạn luân. Từ ngữ yêu bị dùng sai qúa nhiều. Các bạn nghe nói, “Tôi sẽ ly dị chồng.” “Tại sao?” “Ô bởi vì chúng tôi rơi ra ngoài tình yêu với nhau rồi.” Nói cách khác, “Tôi muốn đá ông ấy đi.” Bà ta đã chẳng hề yêu thương ngay từ đầu. Từ ngữ yêu tiếp tục bị dùng sai và bị lạm dụng.
Ý Nghĩa Yêu
Hôm nay trong bài đọc hai và bài Tin Mừng, Chúa Giêsu Kitô, nói về định nghĩa và ý nghĩa yêu là gì. Như Cha đã yêu thương thầy, thầy cũng yêu thương anh em. Thư thứ nhất của Thánh Gioan nói, “Tình yêu của Thiên Chúa được tỏ ra ở giữa chúng ta bằng cách này: Ngài đã sai Con Một của ngài đến thế gian để chúng ta có sự sống nhờ nơi ngài. Ngài đã tự hiến cho ơn cứu chuộc của chúng ta.
Thư thứ nhất của thánh Gioan lại nói, “Bất cứ ai nói ‘tôi biết ngài’ nhưng không tuân giữ các giới răn của ngài thì là người nói dối.” Là người nói dối bởi vì các bạn không thể yêu Thiên Chúa mà lại không tuân giữ các giới răn của Ngài. Đức Giêsu Kitô nói rất rõ. “Anh em sẽ ở trong tình yêu của Thầy nếu anh em tuân giữ các lời Thầy truyền dạy . . . giống như Thầy đã tuân giữ các mệnh lệnh của Cha Thầy và sống trong tình yêu của Ngài.” Do đó dấu chứng đầu tiên của tình yêu chân thật đối với Thiên Chúa, là tuân giữ các giới răn. Nếu các bạn thực sự yêu mến Thiên Chúa thì các bạn sẽ tuân giữ các giới răn.
Dấu khác để chứng thực tình yêu đối với Thiên Chúa là yêu thương tha nhân, là yêu thương nhau. Đức Giêsu Kitô không nói đây là lời khuyên của ngài, đây không phải là một lời đề nghị với các bạn. “Đây là lệnh truyền của Thầy. Hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em.” Có những lúc người ta lưỡng lự ngập ngừng tới lui. Họ thích thế này, họ không thích thế kia, họ không yêu thích cái nọ. Họ không thực sự hiểu ý nghĩa yêu mến Thiên Chúa là gì. Dấu chứng đầu tiên cho thấy tình yêu đối với Thiên Chúa là tuân giữ các giới răn. Dấu thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình, được Đức Giêsu nói cách rất rõ ràng.
Được Tuyển Chọn
Thiên Chúa nhắc nhở cho chúng ta biết là Ngài đã tuyển chọn chúng ta, chúng ta không chọn ngài. Ngài tuyển chọn chúng ta. Hãy nhìn đến những cái Chúa đã ban cho các bạn. Từ mấy tỉ người trên thế giới, Thiên Chúa đã tuyển chọn bạn để bạn được lãnh phép Thanh Tẩy trong ơn sủng của Ngài, để bạn có thể được chia sẻ trong bí tích Thánh Thể, để bạn có thể lãnh nhận ơn tha thứ qua bí tích hòa giải. Thiên Chúa đã tuyển chọn bạn.
Một số người rảo quanh đi tìm một người lãnh đạo mới, một nhà thờ mới. Tôi thích chỗ này và tôi không thích chỗ kia. Tôi không tham dự ở đây bởi vì tôi không thích ông cha xứ. Tôi đi nhà thờ của giáo phái kia bởi vì họ cho phép phá thai. Như thế không phải là chọn Thiên Chúa, đó không phải là chọn cái gì cả, đó không phải là bày tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa.
Yêu mến Thiên Chúa bao gồm như thế này: Đó là Thiên Chúa tuyển chọn bạn! Ngài đặt bạn riêng ra và ban cho bạn sự sống viên mãn. Không có tình yêu nào cao quí hơn là hiến mạng sống mình cho người bạn. Hãy nhận thức trách nhiệm của bạn là phụng sự Thiên Chúa, là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và yêu tha nhân của bạn. Đây là những điều Thiên Chúa đòi buộc. Không phải anh em chọn Thầy, nhưng chính Thầy tuyển chọn anh em, để ra đi sinh nhiều hoa trái. Và giống như Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài vào trần gian, và Người Con đó đã chết để cứu chuộc chúng ta. Do đó Đức Kitô hiện diện nơi trần gian qua bạn. Nếu người ta không thấy Đức Kitô nơi bạn, thì họ sẽ chẳng bao giờ thấy Ngài. Họ sẽ đi lang thang nhặt nhạnh và chọn lựa những cái sai lầm.
Làm Chứng
Nhưng Thiên Chúa đã tuyển chọn bạn và tôi và chúng ta mang trách nhiệm làm chứng nhân cho Đức Kitô. Chúng ta là Đức Kitô trong thế giới ngày nay. Chúng ta bày tỏ điều đó ra bằng tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, tuân giữ các giới răn của Ngài và yêu thương tha nhân. Đây không phải là một lời khuyên hay một đề nghị. Lời nói cuối cùng trong bài Tin Mừng hôm nay là: “Lệnh truyền Thầy ban cho anh em là anh em hãy thương yêu nhau.” Các bạn không thể nói là mình yêu thương nhau nếu các bạn chất chứa những đố kỵ, oán ghét và hận thù. Ghét bỏ tội lỗi là điều thật tốt, nhưng không ghét người có tội. Chống đối những xấu xa ở thế gian là điều tốt nhưng không ghét những người ở thế gian. Ở Rwanda, ở Bosnia và nhiều nơi trên thế giới người ta đánh chém nhau qua nhiều thế hệ và trải qua nhiều năm dài. Tuy thế họ vẫn đi nhà thờ ngày Chúa Nhật và nói là “Tôi yêu mến Thiên Chúa.” Đó là điều không thể. Các bạn không thể yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu tha nhân. Hãy mang lấy mệnh lệnh này theo bạn, đó là các bạn yêu thương nhau như Đức Giêsu Kitô yêu thương các bạn và làm như vậy là chu toàn ý của Thiên Chúa.
Chúng ta đang ở trong tháng Năm. Tháng Năm là tháng được dành để tôn vinh Đức Mẹ và Đức Mẹ là gương mẫu cho chúng ta trong việc làm theo ý của Thiên Chúa. Khi thiên thần hiện ra với Đức Mẹ, cho dù Đức Mẹ không hiểu và không biết điều gì sẽ xẩy ra, Đức Mẹ đã trả lời, “Chúa muốn gì thì con muốn ấy. Xin để cho ý Chúa được thực hiện.” Đó cũng phải là khẩu hiệu của chúng ta. Đức Mẹ là gương mẫu cho chúng ta. Chu toàn ý của Thiên Chúa, tuân giữ các giới răn, yêu thương nhau và các bạn sẽ bảo đảm được ơn cứu rỗi.