Trang

Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

Phúc âm Lễ Chúa Nhật Thứ IV Phục Sinh ( ngày 29/04/2012 )



Lời Chúa trong Thánh Lễ Chúa Nhật Thứ IV Phục Sinh:


Nguồn : www.40giayloichua.net

Mời nghe bài giảng "Lễ Chúa Nhật Thứ IV Phục Sinh " của Giám Mục Phê Rô Nguyễn Khảm.




TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI CHÚNG TA
Lm.Carôlô Hồ Bạc Xái

* 1. Mục tử tốt lành

Dưới thời bạo Chúa Nêrô bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao tín hữu đã chết dưới tay ông vua điên loạn, bạo tàn.

Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin ? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao ? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi :

- Quo vadis, Domine ? Thưa Thầy, Thầy đi đâu ?

- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.

Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên, và để chịu đóng đinh thập giá như Thầy.

"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên" (Ga.10,11). Đức Giêsu ví mình như một mục tử tốt lành khác với người chăn thuê, vì người đã dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Cái chết của Người không bất ngờ, cũng không đầu hàng bạo lực, nhưng là một cái chết tự hiến. Đức Giêsu chết để nói nên lời yêu thương. Một tình yêu tột đỉnh, yêu cho đến cùng. Thánh Gioan viết : "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga.15,13).

Chính tình yêu đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con chiên, khiến Người nói : "Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta" (Ga.10,14-15). Đó là sự hiểu biết nhau sâu xa, sự trân quí giữa mục tử và đoàn chiên.

Đức Giêsu là mục tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá giúp chăn dắt đoàn chiên của Người. Mọi mục tử phải noi gương Người, dám chết cho đoàn chiên được sống. Phêrô là người mục tử đầu tiên. Phêrô có thể trốn bắt bớ, tù tội, chết chóc. Nhưng chính khi đổ máu, Phêrô đã giữ vững đoàn chiên. Cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục hơn bất cứ lời rao giảng nào : "Thầy làm vững đức tin của con. Rồi đến lượt con, con sẽ làm vững đức tin của anh em con". Các mục tử tiếp bước Phêrô vui lòng nằm xuống để nên nhân chứng, và củng cố niềm tin cho các anh em.

Dụ ngôn người "Mục tử tốt lành" cho thấy tình yêu sâu sắc của Thiên Chúa.

• Người yêu thương mỗi người một cách cá biệt, không yêu cách chung chung.
• Người yêu thương vô điều kiện, ngay cả khi chúng ta lầm đường lạc lối.
• Người yêu thương bằng tình yêu vui mừng, chứ không la rầy khiển trách khi tìm thấy chiên lạc.

Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên trên thế giới. Người rất cần các bạn trẻ hiến thân cho sứ mạng mục tử này. Người mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời Chúa, đói tình thương, đói của ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người kêu gọi chúng ta hãy tha thiết xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn, và thánh đức hơn. Những mục tử sẵn lòng âm thầm chết từng ngày cho đoàn chiên.

*

Lạy Chúa, xin gởi đến cho chúng con những mục tử có trái tim của Chúa : luôn say mê Thiên Chúa và yêu thương con người, có tình bạn thân thiết với Chúa, dám hy sinh cho đoàn chiên, dẫn đưa chúng con về với Cha là nguồn hạnh phúc thật của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 2. Ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ

a/ Đối với người Việt chúng ta thì hình ảnh "chiên và người chăn chiên" không phải là một hình ảnh gần gũi, vì xứ sở chúng ta không thuộc vùng Cận Đông với nghề chăn nuôi chiên cừu như Pa-lét-tin xưa. Hơn nữa trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện "đàn chiên với mục tử", thì e rằng chúng ta bị coi là những người lạc hậu ! Nhưng nếu đi sâu vào ý nghĩa và biểu tượng tôn giáo của hình ảnh "chiên và mục tử" thì chúng ta lại chẳng thấy lạc hậu tí nào. Vì chưng những người tin ở Thiên Chúa đều xác tín rằng họ luôn được Thiên Chúa và Chúa Ki-tô quan tâm và tận tình chăm sóc, không chỉ về phương diện tâm linh mà về mọi phương diện con người, không chỉ ở đời sau mà ở cả đời này lẫn đời sau. Mối tương quan gắn bó giữa người chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúa và người tín hữu.

b/ Những nét đặc trưng của Vị Mục Tử nhân lành : Đức Giêsu đã công bố Người là Vị Mục Tử nhân lành, với những nét đặc trưng sau đây :

* Vị Mục tử nhân lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận : biết họ muốn gì ? họ cần gì ? họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào ?

* Vị Mục tử nhân lành luôn đi đầu, đi trước tức hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, tức đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Vị ấy sẽ đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát và cỏ xanh, để chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Thậm chí vị Mục tử sẽ hy sinh mạng sống vì chiên.

c/ Lý do Hội Thánh lấy ngày chủ nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ :

Căn cứ vào Bản tin Hiệp Thông (tiếng nói của Hội đồng Giám Mục Việt Nam) số 11, ra ngày 15 tháng 02 năm 2002 (trang 8-9) cung cấp cho chúng ta những con số cụ thể và đáng chúng ta suy nghĩ trong ngày hôm nay :

(1) : Tổng dân số của Việt Nam hiện là : 80.489.857 người (76.683.203 dân tộc kinh + 3.806.654 dân tộc thiểu số). (2) : Tổng số công giáo của 25 giáo phận : 5.324.492 người (5.065.105 dân tộc kinh + 259.387 dân tộc thiểu số). (3) : Tổng số linh mục của 25 giáo phận : 2.526 Lm (2.133 triều + 393 dòng). (4) : Tổng số tu sĩ trong 25 giáo phận : 11.282 Ts (1.524 nam + 9.758 nữ). (5) : Tổng số chủng sinh của 25 giáo phận : 1.765 Cs (1.044 đang học + 318 học xong + 403 dự bị). (6) : Tổng số giáo lý viên của 25 giáo phận : 45.858 Glv (671 giáo phu + 219 có lương + 44.968 không có lương).

Nếu chia bình quân số giáo dân cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 2.107 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 31.865 người. Nếu chia bình quân số giáo dân cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 472 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 7.134 người. Nếu chia bình quân tổng số người VN không công giáo cho tổng số người VN công giáo thì một người VN công giáo phải giúp cho 14 người VN không công giáo biết Chúa và gia nhập Giáo hội.

Nguyên nhìn vào những con số trên, chúng ta cũng đã thấy được nhu cầu to lớn về nhân sự của Giáo hội Việt Nam trong sứ mệnh sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng mà Giáo hội đã nhận được từ chính Chúa Giê-su. Đã đành rằng ngày nay trách nhiệm sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng không chỉ của riêng các linh mục, tu sĩ mà của mọi Ki-tô hữu. Nhưng các linh mục, tu sĩ vẫn là lực lượng quan trọng nhất, là lực lượng nòng cốt và đầu tầu trong lãnh vực này. Thế nhưng ơn gọi linh mục, tu sĩ càng ngày càng giảm sút trong các Giáo hội địa phương, thậm chí giảm trầm trọng trong một số Giáo hội. Riêng tại Việt Nam, thì tình hình có mấy nét riêng sau đây : (1) Việc thanh niên nam nữ muốn vào chủng viện, dòng tu còn gặp nhiều cản trở từ những qui định của Nhà Nước. (2) Việc các Giám mục, Dòng tu gửi các linh mục, tu sĩ đến nơi cần gửi, đặc biệt đến vùng sâu vùng xa, cũng chẳng dễ dàng gì. (3) Ơn gọi tu trì đã có dấu hiệu sút giảm ở thành thị, nhất là ở các quận nội thành.

Vì thế cho nên chúng ta không chỉ cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo hội -nhất là Giáo hội Việt Nam- nhiều linh mục, tu sĩ tài đức thánh thiện, nhiệt thành mà chúng ta còn phải nài xin Thiên Chúa tạo thuận lợi cho các ứng sinh linh mục tu sĩ được đào tạo đến nơi đến chốn và cho các linh mục tu sĩ có điều kiện cần thiết để thực thi sứ vụ của mình. (Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội).

* 3. "Tình yêu, con đường duy nhất để đến với thế giới bất tín".

"… Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với thế giới những người không tin : đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình yêu. Trước tấm thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại mà con người đã khước từ Thiên Chúa, mọi Kitô hữu, mọi Linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu (…) thánh Phanxicô đệ Salê đã nói : "Tất cả đều dành cho tình yêu, đều ở trong tình yêu, đều vì tình yêu và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo hội". Nhưng cái chân lý cao cả ấy hầu như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chận. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hôn thê của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính thị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phụ. "Trong trái tim giáo hội tôi sẽ là tình yêu" thế là đã rõ, một xác quyết như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu trong chân lý (…)

Thánh Nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của Trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự sống cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường là Sự Thật và là sự sống. Công đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia mai ngày có thể thắc mắc "Giáo hội thời Công đồng đã làm gì ?" Đức Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14.9.1965 : "Giáo hội yêu, giáo hội yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đại kết, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi người kể cả những người bắt bớ giáo hội". Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng là trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux : "Giáo hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu". Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.

Thánh nữ Têrêxa đã khơi gợi hàng ngàn, hàng ngàn ơn gọi làm Linh mục trên khắp thế giới. Những Linh mục ấy đã tìm thấy nơi thánh nữ một tình yêu tuyệt đối dành cho Đức Giêsu và tình yêu Giáo hội, một ý nghĩa sâu xa trong kinh nguyện và trong sứ mệnh truyền giáo trên khắp hoàn cầu, một sự kết hợp bằng chiêm niệm và hoạt động, một mẫu gương dùng con đường tình yêu bé nhỏ và phó thác, đường nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, thánh nữ Têrêxa vẫn tiếp tục làm phong phú tác vụ của các Linh mục, đặc biệt là những Linh mục trẻ bị cuốn hút bởi sứ điệp tình yêu giữa lòng Giáo hội (…)

Tất cả hành trình đức tin thâu tóm trong đức cậy và đức ái. Niềm tin là niềm hy vọng của tình yêu, tin là hy vọng vào tình yêu. Phải chăng vai trò đã được quan phòng của sứ điệp của thánh nữ Têrêxa, ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 3, chính là trả lại cho ta tình yêu và niềm hy vọng ? Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Tình yêu là để yêu thương. Trong lãnh vực tình yêu, thánh nữ Têrêxa là bậc thầy linh đạo trong tình yêu, không có dè dặt, không có tính toán, không có trung dung, không có quân bình vì con người chẳng bao giờ có thể yêu Thiên Chúa cho xứng với tình Người yêu ta (…).

Một nữ tu hỏi thánh nữ Têrêxa : "Chị nói gì với Đức Giêsu ?" Chị thánh trả lời : "Em không nói gì hết, em yêu Người", Chỉ tình yêu là quan trọng. (Đức Hồng Y P.Poupard, tài liệu cho ngày ơn thiên triệu. Trích dẫn bởi Fiches dominicales, năm B)).

* 4. "Trong trái tim Giáo hội, tôi sẽ là Tình yêu"

(Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng, bản văn được trích dẫn trong tài liệu của Ủy ban quốc gia về ơn thiên triệu).

"… Sau cùng con đã tìm thấy an nghỉ… tìm trong thân thể mầu nhiệm của Giáo hội, con chẳng thấy mình trong bất cứ chi thể nào đã được thánh Phaolô miêu tả, đúng hơn con muốn có mặt trong tất cả những chi thể ấy… Đức Ái đã cho con chìa khóa ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu giáo hội có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, chi thể quan yếu nhất, cao cả nhất không thể thiếu được, con hiểu đó là Trái Tim và Trái Tim đó cháy đỏ Tình yêu. Con hiểu rằng chỉ có Tình yêu mới làm cho các chi thể của Giáo hội hoạt động và nếu tình yêu vụt tắt, các Tông đồ sẽ thôi không loan báo Tin mừng, các thánh tử đạo sẽ từ chối đổ máu… Con hiểu rằng Tình yêu phủ trùm lên mọi ơn gọi và tình yêu là tất cả, bao gồm mọi không gian và mọi thời gian. Tắt một lời, Tình yêu là vĩnh cửu !

Thế là, trong niềm vui tột đỉnh, con kêu lên : "Ôi Giêsu, Tình yêu của con… ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là Tình yêu !…

Phải rồi, con đã tìm được vị trí của con trong Giáo hội. Chỗ ấy, ôi Lạy Chúa, chính Chúa đã ban cho con… Trong Trái Tim Giáo hội, thưa Mẹ, con sẽ là Tình yêu… như thế con sẽ là tất cả… như thể giấc mơ của con đã thành hiện thực !!!..."

Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và tu sĩ, chúng ta cầu xin Chúa sai đến đoàn chiên Chúa những chủ chăn tốt lành như lòng Chúa mong muốn. Lạy Chúa, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, xin cho chúng con biết rộng rãi góp phần vào việc đào tạo Linh mục và tu sĩ, bằng lời cầu nguyện, và bằng sự giúp đỡ nhiệt tình .Amen.

Thánh Ca : Chúa Chăn Nuôi Tôi


QUYẾT ĐỊNH ĐÚNG
Msgr. Edward Peter Browne
L. M. Gioan Trần Khả chuyển dịch

Mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta làm nhiều quyết định. Một số quyết định nho nhỏ, một số quyết định lớn, và một số quyết định thật lớn. Thí dụ như mỗi buổi sáng khi thức dạy thì quyết định đánh răng. Đánh răng không phải là một việc lớn. Hoặc bạn thay áo hay giặt dũ. Quyết định khác có thể là hôm nay bạn quyết định mua chiếc xe mới. Đó là một quyết định quan trọng và khá lớn. Cũng có thể bạn nói là trong năm nay sẽ mua căn nhà mới. Quyết định đó là quyết định thật lớn. Một số quyết định nhỏ, một số quyết định lớn lao.

Quyết Định Lớn - Quyết Định Nhỏ

Các bạn ở đây tham dự Thánh Lễ là vì các bạn quyết định muốn là môn đệ của Đức Kitô; các bạn muốn được ơn cứu rỗi. Đó là quyết định lớn lao nhất mà các bạn có thể làm. Nhưng đôi khi các bạn bị phân tâm khỏi cái quyết định lớn lao về ơn cứu rỗi của mình, bởi nhiều những cái quyết định nho nhỏ khác.

Trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Phêrô giải thích: Anh em đã nghe về Đức Giêsu Kitô. Ngài đã làm nhiều phép lạ, ngài đã làm nhiều việc như thế, nhưng bởi vì ngài đã không làm điều mà anh em muốn ngài làm, do đó anh em đã đóng đinh ngài, anh em đã giết ngài.

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu Kitô xưng Ngài là Đấng Chăn Chiên Tốt Lành. Ngài kêu gọi mọi người nhưng nhiều người không đáp lại. Họ biết ngài là ai; họ biết ngài là Đấng Cứu Thế, nhưng họ không đáp lại.

Bài Tin Mừng hôm nay trích từ chương thứ 10 của Thánh Gioan. Nếu bạn đọc ở chương 6 nói về việc Đức Giêsu Kitô cho một đám đông hàng ngàn người ăn với chỉ vài chiếc bánh và mấy con cá. Họ đã đi theo ngài bởi vì họ thấy có lợi cho họ. Và Đức Giêsu nói với họ, “Ta sẽ cho các ngươi chính Thịt và Máu của ta để làm của ăn thức uống và trừ khi các người tiếp nhận, các ngươi sẽ không thể có sự sống đời đời.” Nhiều người đã trả lời rằng, “Chúng tôi không thích nghe nói như thế” và họ đã bỏ đi. Họ đã quay trở đi. Họ đã từ chối Đức Giêsu Kitô bởi vì một vài cái quyết định nhỏ của họ.

Chúng ta nói là mình tận hiến cho Đức Kitô, chúng ta nói mình là môn đệ của Ngài. Tuy nhiên chúng ta làm những quyết định nghịch lại Ngài. Một số trong những quyết định đó thì nho nhỏ, một số có thể là khá lớn, nhưng chúng sẽ góp tích lên. Nếu người ta làm đủ những quyết định xấu,nhỏ hay lớn, trong cuộc sống, họ sẽ gánh chịu sự mất mát phần linh hồn. Cho dù họ có nghĩ đến mục đích cho phần rỗi linh hồn của họ, những quyết định xấu họ làm có thể là cản ngăn làm cho họ không đạt tới được ơn cứu rỗi. Các bạn không thể có được cả hai lối sống. Tôi sẽ đan cử cho các bạn một danh sách liệt kê nhiều điều và các bạn xét trong trí xem các bạn thuộc vào loại nào, nhiều hay tất cả. Thử xét xem các quyết định của các bạn có ảnh hưởng đến ơn cứu rỗi của mình như thế nào.

Dấu Sai Lầm

Khoảng 30% số người có mặt trong thánh đường bây giờ đi lễ trễ, có thể trễ từ 5 đến 15 phút hoặc 20 phút. Họ đi lễ trễ như thế hàng tuần. Đó là một quyết định. Và nếu các bạn đi lễ sớm, các bạn có thể quan sát lúc rước lễ, vừa khi linh mục cho rước lễ thì 25% số người tham dự Thánh Lễ bỏ ra về, hai mươi lăm phần trăm đi ra. Họ không thích phép lành của Chúa Kitô và phép lành của linh mục, họ sẽ bỏ ra về. Họ đã làm một quyết định như thế. Nhà thờ không là quan trọng. “Tôi có việc khác phải làm.”

Chúng ta có thống kê cho biết là 57% người Công Giáo đồng ý cho phá thai. Đó là một hành phi chấp nhận được. Năm mươi bảy phần trăm. Họ nói là cá nhân họ chống việc phá thai, nhưng nếu ai đó muốn phá thai thì người đó có thể làm như họ muốn. Đó là thái độ phản ứng của người ta. Năm mươi bảy phần trăm tán thành cho việc phá thai và họ bầu cho các ứng cử viên ủng hộ việc luật pháp hóa phá thai. Họ đã tự đẩy mình ra xa hơn với ơn cứu rỗi. Nếu con số thống kê là đúng, và tôi nghi là đúng, họ nói là khoảng từ 60% tới 80% các cặp vợ chồng dùng các phương pháp ngừa thai nhân tạo. Con số đó gồm cả các người Công Giáo. Đó là một quyết định đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa. Quyết định lớn vẫn nằm ở đó, “Tôi muốn lên Thiên Đàng.” Nhưng cái quyết định nhỏ này có thể cản ngăn quyết định lớn kia.

Mới đây tôi mở duyệt qua các đài truyền hình và xem thấy những vị giảng thuyết trên truyền hình than phiền là bẩy mươi phần trăm các tín hữu của họ không đóng góp tài chánh. Đóng góp ở đây có nghĩa là dâng cúng 10% lợi tức hay tài sản của họ cho Thiên Chúa. Bẩy mươi phần trăm số giáo dân không đóng góp và các vị giảng thuyết đó thấy khó chịu. Nhưng đó có nghĩa là 30% số giáo dân của họ có đóng góp. Các bạn có biết bao nhiêu người Công Giáo đóng góp vào việc nhà Chúa không? Ít hơn là 1%. Thiên Chúa nói rất rõ ràng, “Hãy dâng cho Thiên Chúa trước và mọi sự sẽ ban thêm cho các ngươi.” Các bạn thuộc về số 1% người đóng góp hay là thuộc về số 99%?

Nhiều người nói là họ không thực sự tin Bí Tích Thánh Thể là Mình và Máu của Chúa Kitô, nó chỉ là một dấu chỉ nào đó thôi. Thật lạ lùng. Có một mục trong một tờ báo Công Giáo nói là 40% người Công Giáo không tin là Bí Tích Thánh Thể thực sự là Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô. Bởi vì họ tin như vậy cho nên họ phạm sự thánh khi họ rước lễ cách bất xứng. Đây là một thống kê khác. Khoảng ba mươi đến ba mươi lăm phần trăm số người rước lễ phạm sự thánh. Điều đó có nghĩa là một người có tội trọng, sống lâu trong tình trạng tội trọng và tiếp tục rước lễ. Ba mươi đến ba mươi lăm phần trăm số người mắc tội phạm sự thánh. Không những họ không được ơn thánh mà họ còn mắc tội phạm sự thánh bằng việc tiến lên bàn thờ nhận lấy Mình và Máu Chúa Kitô.

Có một số khá đông người không tin là họ cần phải đi xưng tội. Tôi không biết là bao nhiêu người bởi vì tôi không thể kiểm kê được. Nhưng một số khá đông nói là họ không cần phải đi xưng tội nữa. Họ chỉ cần xưng với Thiên Chúa và làm như vậy là đủ rồi. Do đó nhiều người không đi xưng tội nữa. Thực sự là họ sai. Đức Giêsu Kitô đã thiết lập phép giải tội, vài ngài nói với vị linh mục đại diện Giáo Hội là, “Con tha tội cho ai thì người ấy được tha, con cầm buộc ai thì tội người ấy bị cầm buộc.” Các bạn không thể nói là, “Tôi không thích điều đó, và tôi quyết định sẽ không đi xưng tội.” Còn nhiều điều khác tôi có thể thu góp và kể ra nhưng như thế cũng đã đủ. Nếu các bạn thuộc về một trong hai hay ba loại người này, và quyết định làm ngược lại giáo huấn của Đức Kitô, thì các bạn sẽ không chu toàn cho phần rỗi linh hồn của mình bởi vì quyết định của các bạn làm ngược lại.

Dấu Chọn Đúng

Đức Kitô xưng nhận là Đấng Chăn Chiên Tốt Lành và ngài mời gọi, “Hãy theo Ta. Hãy mang lấy ách của Ta và gánh của ta thì nhẹ nhàng.” Nhưng có nhiều người không theo, họ không thích theo, do đó họ tự quyết định không muốn đi theo Đức Kitô. Kết qủa là quyết định lớn lao muốn được ơn cứu rỗi, muốn kết hiệp với Thiên Chúa, bị họ loại bỏ từ từ do các quyết định nho nhỏ khác trong đời sống của họ.

Hôm nay trong bài đọc thứ hai, thánh Gioan nói, Thiên Chúa đã yêu chúng ta đến chừng nào bởi Ngài đã cho chúng ta quyền được gọi là con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa gọi chúng ta là con cái của Ngài. Ở chương trước trong thư của thánh Gioan nói là bất cứ ai nói là họ yêu mến Thiên Chúa nhưng không tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa thì là người nói dối. Do đó nếu chúng ta muốn tỏ dấu yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta tuân giữ lề luật của Chúa. Nếu chúng ta muốn là những môn đệ của Đức Giêsu Kitô, chúng ta nhận ngài là Đấng Chăn Chiên Tốt Lành và bước theo Ngài bất cứ khi nào Ngài kêu gọi chúng ta. Nếu ngài trao cho chúng ta những việc khó khăn, chúng ta vẫn cứ tuân theo. Nhưng thế giới trần tục luôn xen vào và nóí là chúng ta không làm như vậy nữa. Chúng ta đã thay đổi hết rồi, ngày nay không còn phải sống như thế nữa. Chúng ta làm một quyết định nhỏ ở chỗ này, một quyết định nhỏ khác ở chỗ kia, và tự đẩy mình xa khỏi cái quyết định lớn lao.

Các bạn có bổn phận làm quyết định ngay lúc này trong Thánh Lễ. Các bạn có là môn đệ của Đức Kitô theo đường lối Ngài kêu gọi, hay theo đường lối riêng của mình? Nếu các bạn là môn đệ của Đức Kitô thì hãy đi theo và nhắm thẳng đến giải thưởng. Hãy đi theo Đức Giêsu Kitô. Ngài là Đấng Chăn Chiên Tốt Lành, và khi Ngài kêu gọi thì các bạn đáp theo. Khi các bạn đáp theo như là con chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu Kitô, các bạn có thể chắc chắn là quyết định lớn lao sẽ được thành sự. Các bạn sẽ được ơn cứu rỗi.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho các bạn.Amen.

Thánh Ca : Chúa Chăn Nuôi


GÃ CHĂN BÒ CỦA THẾ KỶ 21
Pio X Lê Hồng Bảo

Có lẽ hình ảnh “người chăn chiên” hơi xa lạ với dân Việt nam. Trưởng thành từ nền văn minh lúa nước, hình ảnh những chú mục đồng nằm trên lưng trâu hay cưỡi trên lưng bò với ống sáo vi vu giai điệu nom gần gũi và thân thương hơn. Cho dù thuộc tầng lớp nào hay làm nghề nghiệp gì, cũng có người hiền kẻ dữ: Từ vua chúa, quan quyền, địa chủ, phú hào cho đến thương nhân, sĩ tử, công nhân hay nông dân… Nhưng trong tâm khảm tôi, hình ảnh các chú mục đồng luôn luôn… hiền! Không chỉ là những chú bé trong tranh Đông Hồ mà cả những “gã chăn bò” tôi gặp trong cuộc đời bươn chải. Những gã chăn bò luôn tìm những bãi cỏ tốt nhất cho đàn của mình, những gã chăn bò cuối ngày luôn kiểm tra xem bò của mình đã no chưa, những gã chăn bò đi ngang đám mía mới chặt tranh thủ xin một bó ngọn mía cho những con bò cái đẻ, những gã chăn bò mùa lạnh đi xin rơm để thả vào chuồng cho ấm đàn bò…

Có lẽ vì yêu thương loài vật nên họ luôn… hiền!

Hồi còn bé, tôi cũng từng bị chinh phục bởi hình ảnh những gã chăn bò khác qua nghệ thuật thứ bảy: những chàng cao-bồi (cowboy) trong loạt phim western vào thập niên 50 – 60. Đó là những gã chăn bò trông giang hồ và phong trần hơn với hai tay hai súng, giày da cao cổ, tấm áo khoác tròng đầu cũng là tấm chăn đắp lúc đêm về giữa trảng cỏ mênh mông. Những gã chăn bò cưỡi ngựa như làm xiếc, bắn súng nhanh như điện và nhiều kỹ năng khác để đối phó và tồn tại giữa môi trường hoang sơ nhưng rất nhiều tranh chấp. Nhưng những nét chính mà tôi nhận thấy ở họ là: gan lì và hiệp nghĩa! Bấy nhiêu kỹ năng và đức tính ấy chỉ để bảo vệ đàn gia súc mà họ chăn dắt.

Nhưng chung quy, chăn bò Việt nam hay chăn bò Mỹ đều… ít được ăn học! Thật khó để đồng hóa hình ảnh người mục tử mà Chúa dùng với các linh mục được học hành nghiêm túc hiện nay.

Những năm sau này, tôi cũng có dịp được gặp gỡ và sinh hoạt với một số linh mục có nhiều kỹ năng: có vị đàn hay hát giỏi, có vị biết ảo thuật hay làm xiếc, có vị vừa đọc rap vừa nhảy hip-hop điệu nghệ như chàng cao-bồi vừa phi ngựa vừa quăng dây lasso bắt chú ngựa bất kham… Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy hơi bất kính khi so sánh các ngài với những “gã chăn bò” mà tôi vừa đề cập.

Trước giờ tôi vẫn một mực kính trọng các vị mục tử thay mặt Chúa ở giữa trần gian này. Không chỉ vì chiếc áo chùng đen nghiêm trang đạo mạo hay vẻ linh thánh toát ra khi các ngài nâng cao tấm bánh đọc lời truyền, tôi còn kính phục các ngài vì sự tinh thông uyên bác trong nhiều lĩnh vực. Hẳn là các ngài đã được học hành nhiều lắm, rèn luyện dữ lắm! Để trở thành một Alter Christus hẳn không phải là một điều dễ dàng. Tôi từng khâm phục một vị rất nghiêm túc trong giờ giấc và công việc, chúng tôi thường gọi ngài là “reglo” – mẫu người mực thước. Câu nói cửa miệng của ngài là “giờ nào việc ấy”. Khi ngài nói 7 giờ dâng lễ thì nghĩa là đúng 6g60’ ngài bước ra cung thánh trong phẩm phục và ca đoàn phải hát Ca nhập lễ. Tôi thầm nhủ, với cung cách ấy, ngài mà ra đời làm giám đốc doanh nghiệp hẳn cũng rất thành công.

Rồi có lần, tôi chứng kiến cảnh mấy bà Legio thuyết phục đám “con trời” đi xưng tội mùa Phục sinh. Thật ra, đám “con trời” rất dễ thương, chỉ phải cái tội “nhác” và “nhát”. Bê trễ lâu ngày đâm ra lười nhác. Đến với ông cha nghiêm nghị cũng cảm thấy nhát sợ. Thế là, sau nhiều lần hẹn tới hẹn lui, cả bọn tập trung tại nhà một chú, mỗi chú “chích một ly” để lấy can đảm rồi dắt nhau vô Cha. Không biết có phải vì bấy nhiêu “thủ tục” khề khà ấy mà các chú vô Cha hơi trễ hay không? Vào nhà thờ không thấy Cha, cả bọn kéo vào nhà xứ:

_ Thưa Cha, tụi con xin xưng tội…
_ Tụi bay có đọc bảng thông báo dán ở đằng trước không? 14 giờ đến 16 giờ. Giờ nào việc ấy! Bây giờ, Cha mắc đi ăn cơm…
_ Thưa Cha, hôm nay là ngày cuối cùng ạ!
_ Vậy sao bữa giờ không lo? Cha cũng đã thông báo giữa nhà thờ mấy Chúa nhật liền, có đi lễ đâu mà nghe!

Cả bọn tiu nghỉu kéo về và rất lâu sau đó, tôi không gặp họ ở nhà thờ…

Rồi cơ duyên cũng cho tôi được cộng tác với một vị mục tử khác: Vị này khéo tay và lắm tài! Trong tam nhật thánh, tôi phải túc trực luôn trong nhà xứ để làm công việc trang trí vì ba ngày này mang 3 ý nghĩa khác nhau. Ngài luôn cùng làm với tôi vì trang trí cũng là sở trường của ngài. Cứ giải tội hết một tốp là ngài lại vào nhà xứ cởi áo dòng khoác lên ghế rồi xắn tay áo cùng làm. Có người đến xưng tội, ngài lại ra. Khoảng 11g30 trưa, hai cha con vừa làm dấu ăn cơm, nhác thấy bóng một anh thanh niên ngoài nhà thờ, ngài khoác vội áo dòng bước ra. Tôi can:

_ Đợi có vài người rồi Cha ra giải tội luôn thể, ăn cho xong bữa cơm đã?
_ À, trách nhiệm của mình là đến tận nhà năn nỉ hắn đi xưng tội, nay hắn đã tự động đến mà mình không ra ngay, rủi hắn đổi ý đi về thì mình… lãnh đủ! - Ngài vừa nói vừa cười thật hồn nhiên.

Khi đã giải tội cho chàng trai xong, trở vào bàn ăn, ngài tâm sự thêm với tôi:

Mình tự thấy không “học”* nổi các thánh, mình chỉ “học” anh chăn bò. Cuối ngày, lùa bò về chuồng đếm thiếu mất một con nghé (lũ nghé ưa nhảy lăng quăng lắm!) Anh vào ăn vội chén cơm để có sức vào rừng tìm ngay chứ không may chú nghé gặp tụi dắt trộm là… xong đời. Vừa bưng chén cơm lên, nghe tiếng chú nghé lạc “nghé… ọ…” bên ngoài, anh chăn bò có đợi ăn hết bữa cơm hay vội vàng bỏ chén cơm đang ăn để ra dắt chú nghé lạc vào chuồng?

Tôi nghẹn, chan vội muỗng canh…

Từ đó, tôi gọi ngài là “gã chăn bò của thế kỷ 21”.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã không yêu cầu các môn đệ Chúa phải trở nên những vị quan thanh liêm, những ông tướng thao lược, những giám đốc tài ba, những chính trị gia kinh bang tế thế. Vì vậy, xin cho chúng con chỉ biết cầu xin và kỳ vọng ở các ngài vai trò mục tử thiện hảo giữa thế kỷ 21 đầy nhiễu nhương này. Amen.

Thánh Ca : Chúa Cất Tiếng Gọi Con

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét