Trang

Thứ Bảy, 6 tháng 11, 2010

Phúc âm Chúa Nhật 32 Q.N.C (07/11/2010)

Nguồn : www.40giayloichua.net CUỘC SỐNG ĐỜI SAU Lm. Carolô Hồ Bạc Xái * 1. Bàn về việc sống lại Ông Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt nam. Ông có mấy câu thơ như sau: "Ba vạn sáu ngàn ngày lá mấy, Cảnh phù du trông thấy những nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời Tiêu khiển một vài chung lếu láo. " Ông Cao Bá Quát nghĩ rằng đời người vắn vỏi lắm, dài nhất là 3 vạn 6 ngàn ngày, nghĩa là 100 năm, sau đó thì ai cũng chết, mà chết là hết tất cả, cho nên còn sống bao lâu thì hãy lo ăn chơi, hưởng thụ, uống rượu "tiêu khiển một vài chung lếu láo". Những người không tin có đời sau, không tin có sống lại, thì cũng dễ rơi vào quan niệm sống buông trôi hưởng thụ như 4 câu thơ trên. Thời Chúa Giêsu, phái Sađốc cũng không tin có sống lại. Họ dựa vào một khoản luật của Môsê để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao? Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rất khôn khéo. Ngài vừa chứng minh rằng sống lại là một điều hợp lý, vừa giải thích cho người ta hiểu tình trạng của kẻ sống lại như thế nào. Trước hết, để chứng minh rằng sống lại là điều hợp lý, Chúa Giêsu lập luận rằng Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chỉ có kẻ sống mới hưởng được tình thương của Chúa. Nếu chết mà là hết thì đâu còn hưởng được tình thương của Chúa. Do đó Chúa phải cho kẻ chết sống lại để họ có thể hưởng được tình thương Chúa mãi mãi. Lập luận này đối với chúng ta ngày nay thì hơi lạ tai, khó hiểu. Nhưng đối với người Do thái thời đó, vốn rất quen với quan niệm "Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống", thì họ đều dễ hiểu. Tóm lại là Chúa Giêsu khẳng định rằng kẻ chết sẽ được sống lại. Rồi Chúa Giêsu còn giải thích tình trạng của kẻ sống lại như thế nào: đó là một cuộc sống khác hẳn cuộc sống bây giờ, không còn cưới vợ lấy chồng nữa; cuộc sống ấy rất thánh thiện như "các thiên thần" cuộc sống ấy rất thân mật với Chúa, kẻ lành sống lại được coi là "Con của Chúa". Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại Vậy nếu chúng ta tin có sống lại thì bây giờ chúng ta phải sống như thế nào? Hồi nảy chúng ta đã nghe lại mấy câu thơ của ông Cao bá Quát với chủ trương còn sống bao lâu thì hãy ăn chơi, hưởng thụ cho tối đa, kẻo chết rồi sẽ không còn được hưởng thụ nữa. Đây là quan niệm của những người không tin có sống lại. Vì quan niệm như vậy, cho nên nếu họ có sống buông thả, chạy theo hưởng thụ thì cũng là hợp lý thôi. Thế nhưng có những người có đạo mà cũng sống theo kiểu đó, quan tâm duy nhất của họ là chỉ lo ăn, lo mặc, lo xài, lo mua sắm, lo chơi, lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Sống kiểu đó là mâu thuẫn với niềm tin của mình. Hạng người thứ hai không quá duy vật như số người vừa kể trên. Tuy họ mãi mê kiếm tiền và rất coi trọng cuộc sống vật chất, nhưng họ vẫn không quên đời sau. Họ ít đến nhà thờ, ít đọc kinh cầu nguyện, nhưng họ chịu khó bỏ tiền ra để xin lễ, chịu khó bỏ tiền ra để góp phần xây sửa nhà thờ, đóng góp tiền bạc khi có những cuộc quyên góp... Bỏ tiền ra như vậy là họ yên tâm, cho rằng mình đã có bỏ vốn để đầu tư cho đời sau. Có phải đó là niềm tin vào sự sống lại không? Có lẽ cũng là niềm tin, nhưng là tin lệch lạc: hạnh phúc đời sau không phải mua được bằng tiền bạc đâu. Đời này thì có tiền mua tiên cũng được, nhưng đời sau không phải vậy! Thiết nghĩ nếu chúng ta tin rằng có sống lại, thì chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống của mình. Thể hiện thế nào? Trước hết, ta phải biết đánh giá những biến cố xảy ra ở đời này bằng cặp mắt đức tin: người không tin thì rất sợ chết, rất sợ bệnh tật, rất sợ mất mát, rất sợ đau khổ. Họ sợ như vậy là phải, bởi vì họ không biết có đời sau. Chỉ có mỗi đời này mà đời này lại bệnh tật, mất mát, khổ sở và chết nữa thì không sợ sao được. Nhưng người có đạo như chúng ta đã tin có đời sau, đã tin rằng đời này chỉ là tạm, đời sau mới vĩnh viễn, mà cũng sợ như thế tức là mâu thuẫn với niềm tin của mình. Điểm thứ hai để thể hiện niềm tin của mình vào sự sống lại là chúng ta phải biết phân chia thời giờ của ta để quan tâm chăm lo mọi mặt: Dành một phần thời giờ để lo làm ăn sinh sống. Dành thêm một phần thời giờ khác để gần gũi với con cái, giáo dục gia đình. Thêm một phần thời giờ nữa để xây dựng những tương quan xã hội. Và chắc chắn cũng phải dành một phần thời giờ để lo việc đạo, đời sau. Chúng ta phải nhớ nguyên tắc "Gieo gì thì gặt nấy": nếu chúng ta dành hết thời giờ ở đời này để chỉ lo tiền bạc vật chất thì chúng ta chỉ gặt được tiền bạc vật chất mà thôi; nếu ta không dành thời giờ để xây dựng hạnh phúc gia đình thì sẽ không có gì lạ nếu gia đình ta chẳng hạnh phúc; nếu ta không đầu tư thờ giờ và công khó để lo cho đời sau thì mong gì đời sau ta sẽ được hạnh phúc. Dưới đây là một câu ngạn ngữ phương Tây cho chúng ta suy nghĩ: Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo. Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng. Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế Nếu bạn muốn hạnh phúc một muôn đời, hãy làm người có đạo tốt. * 2. Sống lại Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe đề cập đến vấn đề kẻ chết sống lại. Mỗi khi chúng ta đọc kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Chúng ta tuyên xưng như thế và chúng ta tin điều đó dễ dàng. Chứ thực ra vấn đề này không dễ dàng cả vào thời Chúa Giêsu lẫn ở thời nay. Thời nay có nhiều người chỉ nghĩ đến vật chất: ngay cả Thiên Chúa, linh hồn và đời sau họ còn không tin, huống chi là tin chuyện xác loài người chết rồi mà một ngày kia còn sống lại được. Thời Chúa Giêsu 2000 năm trước đây cũng thế. Vấn đề kẻ chết sống lại là một tín điều không phải do trí óc con người lý luận ra, mà do Thiên Chúa mạc khải dần dần qua dòng thời gian. Ở thời xa xưa, khi mạc khải Chúa chưa tỏ hiện trọn vẹn, người Do thái cũng tin như những dân ngoại: Họ tin rằng sau khi chết, phần linh hồn của con người còn tồn tại, tồn tại trong cõi âm phủ tối tăm không ánh sáng vì thiếu hết mọi hạnh phúc, linh hồn kẻ lành người dữ sau khi chết đều phải rời vào cõi âm phủ buồn thảm đó. Còn phần xác thì tiêu tan ra, không hy vọng gì sống lại được. Mãi đến thời anh em nhà Macabê khởi đầu dành độc lập cho đất nước Do thái, nghĩa là khoảng 100 năm trước Chúa Giáng sinh, mạc khải mới cho biết xác loài người có ngày sẽ sống lại. Chính vì tin tưởng như thế nên vào thời này, như đoạn sách thánh lúc nãy thuật lại, có 7 anh em nhà bị bắt và được dụ dỗ bỏ đạo, 7 anh em sẵn sàng thà chết phần xác mà không bỏ đạo còn hơn là chết luôn phần hồn vì tội chối Chúa, vì họ tin chắc rằng xác thể họ sẽ không chết mãi, nhưng Thiên Chúa sẽ cho sống lại vinh hiển. Tuy đã có mạc khải như thế, nhưng cho tới thời Chúa Giêsu, vẫn có người còn chưa tin theo. Đại biểu của những kẻ không tin này là phái Sađóc. Vì không tin, nên khi nghe Chúa Giêsu giảng về kẻ chết sống lại, họ mỉa mai chế giễu và đến với Chúa đặt ra một câu hỏi lố bịch cốt ý chọc ghẹo Chúa. Họ lý luận: nếu như ông nói người ta sẽ sống lại, thì giả sử một nhà kia có 7 con trai, anh cả lấy vợ rồi chết. Và căn cứ theo luật Môsê thì em kế phải cưới người vợ góa để có con nối dõi tông đường, nhưng em kế cũng chết mà không con, rồi người thứ ba lấy, rồi cũng chết, cứ thế cho đến hết 7 anh em. Vậy khi sống lại thì người đàn bà kia là vợ của ai? Khi hỏi như thế, nhóm Sađóc dĩ nhiên không cần Chúa trả lời rằng người đàn bà đó là vợ của ai cả, nhưng muốn Chúa bị bắt bí và phải thú nhận rằng giáo lý của Ngài về việc kẻ chết sống lại lại là bố bịch và do đó Ngài phải phủ nhận giáo lý đó để đi theo lập trường của họ. Nhưng trong câu trả lời của Chúa Giêsu, Ngài chẳng những giải thích rõ hơn về việc kẻ chết sống lại, mà còn trả lời thẳng về việc ai là chồng của người đàn kia. Đại khái Ngài bảo: vấn đề kẻ chết sống lại là một điều chắc chắc có căn cứ trên sách thánh, bởi Thiên Chúa đã phán Ngài là Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, mà Thiên Chúa không là Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống, cho nên các tổ phụ đó tuy đã lìa đời nhưng vẫn là kẻ sống và xác thể họ sẽ sống lại. Ngài còn cho phái Sađóc biết thêm rằng: sau khi sống lại người ta không còn sống theo những điều kiện của đời này, nghĩa là không còn cưới vợ lấy chồng nữa. Tất cả đều hướng về Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc thật và độc nhất, và là Đấng thoả mãn mọi nhu cầu của con người. Chúng ta là con cái Chúa đang sống giữa con cái thế gian như một nhóm thiểu số, như hạt muối trong lòng đất, như nhúm men trong thúng bột. Nhiều người sống quanh ta không tin ở đời sau, và đa số không tin việc sống lại. Do chính cuộc sống chúng ta, chúng ta phải làm sao chứng minh cho mọi người về niềm tin của chúng ta: - Tin rằng xác loài người ngày sau sống lại, chúng ta phải làm sao cho mọi người thấy rằng ngoài những giá trị thuần túy vật chất như tiền bạc, cơm áo, tài sản... còn có những giá trị tinh thần quý báu hơn như thà mất mát một vài tiện ích vật chất chứ không phạm tội để bảo tồn những giá trị thiêng liêng của linh hồn; như không khư khư nhắm mắt chỉ lo cho đời sống vật chất đời này mà quên mất đời sau: như dám quảng đại hy sinh chia xẻ những của cải mình đang có cho những người anh chị em túng thiếu hơn mình... Một niềm tin chắc chắn và được biểu lộ qua một cuộc sống cụ thể như thế mới làm cho những kẻ không tin không chế nhạo chúng ta và còn có sức lôi kéo họ đi theo niềm tin của chúng ta về việc kẻ chết sống lại. * 3. Hợp hoan bên Chúa Trong kho tàng chuyện cổ Tây Phương có câu chuyện Công Chúa Ngủ Trong Rừng, như sau: Ngày xưa, ở vương quốc hạnh phúc, nhà vua sinh dược một công chúa xinh đẹp tuyệt vời. Lễ rửa tội được tổ chức linh đình, có mặt các bà tiên, mỗi bà tặng công chúa một món quà là một lời chúc tốt đẹp. Dù không được mời, mụ phù thuỷ ghen tức cũng bay đến, lẩm bẩm câu chúc dữ: "Một ngày kia, cái suốt chỉ sẽ đâm vào tay công chúa và con bé sẽ phải chết!" Nói xong, mụ bay vù qua cửa sổ. Mọi người buồn bã mất vui. May thay, vẫn còn một bà tiên tốt bụng đến trễ. Bà nói: "Ta sẽ làm nhẹ lời nguyền rủa ấy: cô bé sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc rất dài cho tới khi một hoàng tử tốt lành, sẽ đến nắm tay kéo dậy và cô sẽ được hạnh phúc mãi mãi". Để đề phòng, nhà vua cấm tất cả thần dân không được dùng suốt chỉ. Nhưng một ngày kia, công chúa lên tháp canh trong lâu dài và thấy một bà lão đang khâu vá. Cô xin bà cho khâu thử. Thế là cái suốt chỉ đâm vào tay cô, cô lăn ra chết! Người ta đặt xác cô giữa lâu đài, nhưng các bà tiên tốt bụng đã khiến mọi người trong lâu đài cùng bất tỉnh cả. Một rừng cây mọc lên che phủ lâu đài. Hoa thơm cỏ lạ bốn mùa đua nở. Thời gian trôi đi đã ngàn năm, cho đến khi một hoàng tử lịch lãm đi săn ngang qua đó, khám phá ra toà lâu đài. Chàng bước vào ngỡ ngàng trước nàng công chúa xinh đẹp. Hoàng tử đã quì gối cầm tay công chúa, và nàng liền mở mắt chỗi dậy. Thế là hoàng tử rước công chúa về kinh thành, xin vua cha tổ chức lễ cưới linh đình. * Công chúa ngủ trong rừng chính là hình ảnh của người tín hữu an nghỉ trong ơn nghĩa Chúa. Sau một giấc ngủ dài họ được Thái Tử Bình An là chính Chúa Giêsu cầm tay nâng dậy, đưa vào tiệc cưới Nước Trời. Chúng ta tin rằng con người sinh ra là để được sống mãi. Cái chết chỉ là ngưỡng cửa đưa vào chốn trường sinh. Một người chỉ có một cuộc sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định số phận cho cuộc sống đời sau. Việc thiện hôm nay sẽ bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ Hoàng Vân: "Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay". Phái Xa đốc, trái lại, họ không tin có sự sống đời sau, cũng chẳng tin có sự sống lại, nên hôm nay, Chúa Giêsu muốn tiết lộ một vài hình ảnh của đời sau rằng: Đời sau khác hẳn đời này. Người ta "không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng" vì con người "không thể chết nữa", nên đâu cần sinh con để bảo tồn nòi giống, nhưng được "sống ngang hàng với các thiên thần" là ca ngợi, tôn vinh và phụng thờ Thiên Chúa. Họ được thông phần vinh quang Thiên Chúa (Lv 12, 7), được dự phần vào dòng dõi của Người (1 Ga 3, 2). Thánh Phao lô viết: "Việc kẻ chất sống lại cũng vậy. Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1 Cr 15, 42-44). Quả thật, con người được Thiên Chúa dựng nên để sống trường sinh, nhưng vì sự đố kỵ của ma quỷ mà cái chết đã nhập vào thế gian. Thánh ý của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chặn bởi quỷ ma, con người phải tìm lại được quyền bất tử của mình. Đó là sự sống lại của những người Công chính. Lời than thở của thánh Augúttinô đã nói lên nỗi khát khao của con người: "Lạy chúa Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ an trong Chúa". Chúa dựng nên con người để hưởng hạnh phúc, nhưng không chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng đợi chờ và yêu thương ta mãi mãi. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú bên đường mà quên cùng đích cuộc đời là phải gặp được Chúa. Có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những thú vui trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, tự điển sống của họ không có từ "đời sau". Họ đang sống mà như đã chết. * 4. Nghĩ đến sự chết Càng lớn tuổi, chúng ta càng ý thức rằng cuộc sống này ngắn ngủi chừng nào và mỏng dòn như thế nào. Và mặc dù không muốn, càng ngày chúng ta càng nghĩ nhiều về sự chết. Việc suy nghĩ về sự chết không nên khiến chúng ta bi quan sợ hãi, trái lại nó phải đem đến cho chúng ta những giá trị tích cực: nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ yêu quý sự sống hơn; nhờ nghĩ đến cái chết, chúng ta sẽ đón nhận từng ngày sống như một món quà; và khi đón nhận cuộc sống như một món quà của Chúa, chúng ta sẽ sống mà yêu thương Chúa nhiều hơn. Chết chỉ là một bước đi qua. Tuy nhiên, nhiều người nghe nói thế mà không muốn tin như thế. Thực ra, có gì khó tin lắm đâu? Cuộc đời vốn gồm nhiều bước đi qua: Khi chúng ta sinh ra là chúng ta đi qua từ cuộc sống trong bụng mẹ sang cuộc sống bên ngoài. Khi chúng ta đến trường là chúng ta đi qua từ cuộc sống ở gia đình nhỏ bé sang cuộc sống ở một cộng đồng rộng lớn hơn. Khi lập gia đình là chúng ta đi qua từ cuộc sống một mình sang cuộc sống lứa đôi. Khi đến tuổi hưu dưỡng, chúng ta sẽ đi qua từ cuộc sống làm việc sang cuộc sống nghỉ ngơi. Mỗi một bước đi qua đều dẫn đến một tình trạng vừa giống như chết nhưng đồng thời cũng là một cách sống mới. Thì ngày chết cũng vậy: đó là một bước đi qua từ cuộc sống đời này sang cuộc sống đời sau. * 5. Làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống đời sau Bà mẹ và 7 người con trong bài đọc I là những người tin có sự sống đời sau, và họ đã làm chứng cho niềm tin ấy bằng cách dám hy sinh mạng sống đời này. Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau thì chúng ta cũng phải làm chứng cho người khác thấy là chúng ta thực sự tin như thế. Người khác mà thấy chúng ta thực sự tin như thế thì có thể họ mới tin theo chúng ta. Nhưng thế nào là chứng tỏ mình thực sự tin vào cuộc sống đời sau? Là chúng ta dám từ bỏ những thứ mà cuộc sống đời này cần. Là chúng ta không quá sợ khổ và sợ chết. Là trong khi còn sống, chúng ta không chỉ tìm kiếm những giá trị vật chất để bảo đảm cho đời này, mà còn tìm kiếm cách hăng say hơn những giá trị tinh thần và đạo đức là bảo đảm cho cuộc sống đời sau. * 6. Kinh nghiệm cận tử Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là "kinh nghiệm cận tử" (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau: Cảm nghiệm thứ nhất của những người ấy là thấy mình rời khỏi thân xác của mình, đồng thời cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu sau khi rời khỏi thân xác. Cảm nghiệm thứ hai là thấy mình đi trong một đường hầm rất dài. Sau khi đi hết đường hầm thì tới một vùng ánh sáng và gặp một Đấng tỏa ra ánh sáng. Thứ ánh sáng này sáng hơn mọi thứ ánh sáng họ đã từng thấy ở trần gian nhưng không chói mắt mà lại rất dễ chịu, đến nỗi họ muốn được ở mãi trong ánh sáng đó và bên cạnh Đấng tỏa ánh sáng đó. Cảm nghiệm thứ ba là được Đấng sáng láng ấy cho thấy lại cuộc đời của họ, giống như xem một cuốn phim quay tất cả những lời nói việc làm và suy nghĩ của họ từ hồi có trí khôn cho đến lúc chết. Lúc xem lại cuốn phim cuộc đời ấy, khi thấy một việc xấu thì tự nhiên lòng họ cảm thấy buồn và bứt rứt khó chịu, đồng thời đấng sáng láng ấy đánh giá cho họ biết đó là một việc làm không tốt. Ngược lại khi thấy một việc tốt thì họ cảm thấy vui, dễ chịu và hạnh phúc, đồng thời đấng sáng láng ấy khen thưởng. Những việc tốt là những việc đã làm vì lòng yêu thương, những việc xấu là những việc họ đã làm do động cơ không yêu thương. Được ở trong ánh sáng huyền diệu ấy và ở gần đấng sáng láng ấy, ai cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc nên muốn ở lại mãi, nhưng Đấng ấy bảo: "Bây giờ con chưa được ở lại, vì con còn nhiều việc bổn phận phải làm ở trần gian. Vậy con phải về". Và khi đó là lúc họ tỉnh lại. Tất cả những người sống lại ấy đều thay đổi cách sống: từ đó trở đi họ không sợ chết nữa; họ không coi trọng việc tìm kiếm danh lợi thú nữa mà chỉ lo chu toàn bổn phận và đối xử với mọi người bằng tình thương. * Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con hưởng dùng hương hoa của cuộc sống cùng với bao niềm vui và hạnh phúc. Chúng con chỉ xin Chúa thêm một ân huệ này là cho chúng con được về hợp hoan với Chúa đời đời. Amen. TRẺ SINH ĐÔI Cha Mark Link, S.J. Chủ đề: "Chúng ta phải sống ở đời này theo một phương cách nhằm đảm bảo niềm vui vĩnh cửu ở đời sau." Có một bà mẹ mang thai đôi. Một đứa là gái, đứa kia là trai. Nhiều ngày tháng trôi qua, và chúng lớn dần. Khi càng lớn, chúng càng vui mừng ca hát: "Có được sự sống thật là vĩ đại!" Cùng nhau chúng thám hiểm lòng mẹ. Khi chúng tìm thấy chiếc nhau của bà mẹ, chúng la lên vui sướng: "Mẹ thương chúng ta biết là chừng nào đến nỗi chia sẻ sự sống cho chúng ta!" Không bao lâu, hai đứa ngày càng thay đổi đáng kể. Đứa con trai hỏi, "Thế nghĩa là gì?" "Có nghĩa cuộc sống của chúng ta trong lòng mẹ sẽ chấm dứt," đứa con gái trả lời. "Nhưng mình không muốn rời lòng mẹ," đứa con trai nói. "Mình muốn ở đây mãi." Đứa con gái trả lời, "Mình đâu có lựa chọn được. Nhưng mà biết đâu có đời sống sau khi sinh." "Làm sao được?" đứa con trai hỏi. "Chúng ta sẽ bị tách khỏi cái nhau của mẹ mình thì làm sao sống nổi? Hơn nữa, trong bụng mẹ có những chứng cớ rõ ràng là có những đứa sống trước mình, và chưa có đứa nào trở lại đây cho mình biết là có sự sống sau khi sinh. Không được đâu, đến đây là chấm dứt." Và rồi đứa con trai thấy tuyệt vọng, suy nghĩ. "Nếu đời sống trong bụng mẹ chấm dứt bằng cái chết, thì mục đích của đời sống đó là gì? Ý nghĩa của nó là gì? Có lẽ mình không có mẹ. Có lẽ mình chỉ bịa ra người mẹ để cảm thấy an tâm." "Nhưng chúng ta phải có một người mẹ," đứa con gái nói. "Vì làm thế nào mà chúng ta vào đây được? Làm thế nào chúng ta sống được?" Và rồi những ngày cuối cùng trong bụng mẹ đầy những thắc mắc và lo sợ. Sau cùng, giây phút chào đời đã đến. Khi hai đứa mở mắt nhìn, chúng đã khóc vì sung sướng. Những gì chúng thấy còn hơn cả mơ ước. Dĩ nhiên, câu chuyện trên chỉ là một ngụ ngôn. Nó so sánh đời sống ở thế giới này với đời sống trong lòng mẹ. Cũng như hai đứa trẻ song sinh tự hỏi về đời sống sau khi sinh giống như thế nào thì chúng ta cũng tự hỏi về đời sống sau khi chết và thế giới ấy giống như gì. Và cũng như đời sống sau khi sinh vượt quá những mơ ước của hai đứa song sinh thì đời sống sau khi chết cũng vượt quá ước mơ của chúng ta. Theo lời Thánh Phaolô: "Điều mà chưa ai từng thấy hay nghe biết, điều mà chưa ai dám nghĩ sẽ xảy ra, thì đó chính là điều mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Người" (1 Corinthians 2:9) Chuyện ngụ ngôn của hai đứa song sinh thích hợp với các bài đọc hôm nay. Vì cả Phúc Âm và bài đọc một đều rõ ràng đối phó với sự sống sau khi chết. Và vì thế, có lẽ thật thích hợp cho chúng ta để suy nghĩ về đề tài đó. Một cách cụ thể, chúng ta có thể suy nghĩ về câu hỏi rất thực tế: Trong thế giới bận rộn này, làm sao một con người có thể sống theo một phương cách nào đó nhằm đảm bảo sự sống vĩnh cửu ở đời sau? Câu hỏi này được đề cập đến trong một cuốn sách của cô Doris Lee McCoy có tựa đề là Megatraits: Twelve Traits of Successful People. (Vô Số Đặc Điểm: 12 Đặc Điểm của Người Thành Công). Một trong những người mà cô McCoy phỏng vấn khi thực hiện cuốn sách là ông Peter Coors, chủ tịch ngành bia của công ty Adolph Coors. Ông Adolph Coors từ nước Đức vào Mỹ dưới dạng hành khách đi tầu lậu vé. Ông đến Hoa Kỳ mà không có giấy thông hành, không một đồng xu, không có gì cả. Từ một khởi đầu không ai dám nghĩ đến, ông đã sáng lập một trong những công ty thành công và giầu có nhất Hoa Kỳ. Peter Coors là chắt của Adolph Coors. Khi cô McCoy hỏi ông Peter nghĩ gì về sự thành công, ông trả lời như sau: "Sự thành công đối với tôi thật căn bản. Thứ nhất, khi cuộc đời tôi chấm dứt, sự thành công sẽ là đứng trước mặt Thiên Chúa, và cảm thấy rằng dù tôi có những lầm lỗi, tôi luôn luôn coi Thiên Chúa như tâm điểm của đời tôi. "Thứ hai, sự thành công đối với tôi là có được một gia đình tốt đẹp và một hôn nhân tốt đẹp. Đó là một phần rất quan trọng của đời tôi. "Thứ ba, sự thành công đối với tôi là, sau thời gian làm việc với công ty chấm dứt, tôi có thể nói rằng tôi đã giúp đỡ, không chỉ công ty, nhưng còn các nhân viên nữa." Ba nhận xét của ông Peter Coors bao gồm câu trả lời cho thắc mắc của chúng ta: Trong thế giới bận rộn này, làm sao một con người có thể sống theo một phương cách nào đó nhằm đảm bảo sự sống vĩnh cửu ở đời sau? Thứ nhất, chúng ta phải sống ở đời này theo một phương cách mà sau khi chết, trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đoan chắc rằng Thiên Chúa luôn luôn ở tâm điểm của đời sống chúng ta. Thứ hai, chúng ta phải sống theo một phương cách mà, sau việc yêu mến Thiên Chúa, việc yêu mến gia đình chiếm địa vị ưu tiên trong đời sống. Sau cùng, chúng ta phải sống ơn gọi của mình theo một phương cách không những tích cực góp phần cho ngành nghề và lãnh vực hoạt động nhưng còn cho những người mà chúng ta cùng làm việc. Nếu chúng ta có thể thi hành như vậy, quả thật cuộc đời chúng ta đã sống theo một phương cách được cam đoan bởi lời hứa của Thánh Phaolô: "Điều mà chưa ai từng thấy hay nghe biết, điều mà chưa ai dám nghĩ sẽ xảy ra, thì đó chính là điều mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Người" Chúng ta hãy kết thúc với một bài thơ. Bài thơ này là một kết luận thực tế, thích hợp với những gì chúng ta vừa nói. Bài thơ mang tên "Dẫu Vậy." Con người thì vô lý, sai lầm, và ích kỷ, Dẫu vậy hãy cố yêu thương họ! Nếu bạn làm điều tốt, đời sẽ lên án bạn là vì nhiều ẩn ý. Dẫu vậy hãy làm tốt cho họ! Nếu bạn thành công, bạn sẽ có thêm những người giả dối và kẻ thù ghét bạn. Dẫu vậy hãy thành công! Những điều tốt bạn làm sẽ rơi vào quên lãng. Dẫu vậy hãy làm tốt! Sự thành thật và thẳng thắn khiến bạn dễ bị tổn thương. Dẫu vậy hãy thành thật và thẳng thắn! Những người vĩ đại với các tư tưởng vĩ đại có thể bị hạ nhục bởi những người ti tiện. Dẫu vậy hãy nghĩ đến điều vĩ đại! Những gì bạn bỏ công xây dựng cả năm có thể bị tiêu hủy sau một đêm. Dẫu vậy hãy xây dựng! Người ta thực sự cần được giúp đỡ nhưng họ có thể tấn công bạn nếu bạn giúp đỡ họ. Dẫu vậy hãy giúp đỡ họ! Bạn hết sức xây dựng thế giới và chỉ nhận được những đắng cay. Dẫu vậy hãy hết sức trao ban cho thế giới! CÒN GÌ NỮA KHÔNG Lm. Bùi Quang Tuấn, C.Ss.R. “Chết là hết”. Thời nào cũng có những con người xác tín như thế. Không phải chỉ khi khoa học kỹ thuật tiến bộ làm lắm kẻ đánh mất niềm tin vào thượng đế và sự sống mai sau, nhưng từ thời Đức Giêsu nhiều người đã cho rằng chết là đi vào cõi hư vô tận tuyệt. Tiêu biểu là bè phái Sađucêô. Song, điều kỳ quái là đa số thành viên của phái này lại gồm toàn những tư tế đạo Do thái. Sađucêô và Pharisiêu là hai nhóm người từng chống đối và bắt bẻ giáo lý Đức Giêsu cách quyết liệt, dù rằng niềm tin và đường lối của họ khác biệt nhau. Pharisiêu tin vào sống lại, thiên thần, và thần linh; Sađucêô phủ nhận tất cả. Pharisiêu coi trọng Thánh kinh, sách luật và các tiên tri; Sađucêô chỉ nhìn nhận Ngũ kinh và luật Môisen. Pharisiêu trông chờ Đấng cứu thế; Sađucêô cho là mơ mộng viễn vông. Ngoài ra, Sađucêô còn được biết đến như những kẻ chuyên cầu than với chính quyền, tìm kiếm một sự ổn định trong việc tế tự và địa vị lãnh đạo. Thế nên hàng ngũ Sađucêô cũng có nhiều người là quan chức cao cấp, thương gia sừng sỏ, hay địa chủ giàu có. Họ chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hoá Hy lạp, nơi không quen với tư tưởng sống lại của thân xác. Khi thấy đạo lý của Đức Giêsu thiên về việc sống lại giống như nhóm Biệt phái, mấy người Sađucêô đã bày trò chế diễu bằng cách nhắc đến luật “Anh Em Chồng” của Môisen. Luật ấy nói rằng: “Khi anh em của người nào chết đi mà không có con, vợ của người chết sẽ không được thuộc về ai khác ngoài nhà. Một anh em của chồng sẽ nhập phòng với nó và lấy nó làm vợ và giữ nghĩa anh em chồng với nó. Con trai đầu lòng sinh ra sẽ lưu danh người anh em đã chết. Và như vậy tên nó sẽ không bị xoá khỏi Israel. Nhược bằng người ấy không muốn lấy chị em dâu mình, thì người chị em dâu sẽ lên nơi cổng thành, đến với hàng kỳ mục mà thưa: ‘Người anh em chồng tôi không chịu lưu danh cho anh em mình trong Israel. Y không muốn giữ nghĩa anh em chồng với tôi!’ Các kỳ mục trong thành sẽ triệu nó đến và hỏi chuyện. Nếu nó đứng lên và thưa: ‘Tôi không muốn lấy nàng!’ thì người chị em dâu sẽ tiến lại gần nó, trước mắt các kỳ mục, tháo một chiếc dép khỏi chân nó, và nhổ [nước miếng] vào mặt nó, đoạn cất tiếng nói: ‘Như thế đó, người ta phải xử với con người không xây dựng cho gia đình của anh em nó!’ Và người ta sẽ gọi tên nó là “nhà kẻ bị tước dép” (Tl 25:5-10). Như thế, chiếu theo luật được viết, không biết sáu anh em nhà kia, vì muốn xây dựng cho gia đình anh mình hay vì sợ mang danh “kẻ bị tước dép”, nhưng tất cả đều đã “nhập phòng” với người chị dâu. Tuy nhiên, kết quả chỉ là công cốc. Cả đám đều chết ráo. Cứ như là chuyện quỉ dữ Asmôđê quật chết bảy người chồng của Sara trong đêm động phòng, trước khi cô này lấy Tôbia và sống bình an (Tb 3:7t). Vấn đề được đưa ra: vậy khi sống lại, ai sẽ được chính thức làm chồng của người đàn bà kia, và ai sẽ phải cam chịu sống cảnh cô đơn đời đời? Logic quá! Lý luận như vậy, nếu là thần học gia đại tài thì cũng phải nhức óc. Nhưng Đức Giêsu đã dùng chính vấn nạn đầy tính diễu cợt đó để mạc khải một chân lý của sự sống mai sau. Chân lý đó không ai có thể tưởng tượng ra. Như thai nhi trong lòng mẹ không thể biết mình sẽ sống thế nào sau khi ra đời, thì một con người cũng sẽ không thể hiểu thấu thế giới bên kia cửa chết ra sao sau khi qua đời. Song Đức Giêsu đã tiết lộ cho con người biết đôi điều căn bản. Thứ nhất: có hạnh phúc mai sau. Hạnh phúc đó không phải ai cũng có được. Người ta sẽ phải trải qua giai đoạn chịu xét xử, và “ai được xét là xứng đáng” thì mới được tặng ban (Lc 20:35). Điều thứ hai: ai được thưởng cho sự sống lại sẽ không phải chết nữa. Ở đó “họ sống như các thiên thần” (Lc 20:36), tức là không còn chuyện cưới vợ, lấy chồng, sinh con. Như thế sự sống mai sau sẽ không diễn ra theo kiểu con người trần thế đang có. Người ta không thể chết nên không cần truyền sinh. Điều thứ ba: “Họ nên con cái Thiên Chúa”. Có lẽ không gì tuyệt vời hơn, giá trị hơn, và hạnh phúc hơn khi hoàn toàn bước vào mối liên hệ thiết thân với Đấng Tạo Hoá. Được nối kết với Thiên Chúa Tình Thương, chính là hạnh phúc đích thật mà “muôn loài thọ tạo ngong ngóng đợi chờ” (Rm 8:18). Thương yêu là cội nguồn của hạnh phúc. Hạnh phúc nào cũng cần có yêu thương. Ngay những hạnh phúc chóng qua ở đời này lắm khi cũng không thể vắng bóng chữ “yêu”. Ví dụ: kẻ cảm thấy “hạnh phúc” nếu có tiền, thì đã là người “yêu tiền”; kẻ “sung sướng” vì được chức vị cao sang thì đã là người “yêu quyền”; kẻ “vui thú” vì thoả mãn nhu cầu thân xác đã là người “yêu xác thịt”. Đối tượng tình yêu càng chóng qua, hạnh phúc tìm đến càng chóng tàn. Thế nên được liên kết với Yêu Thương chân thật chính là hạnh phúc sâu xa mà Đức Giêsu muốn mạc khải cho con người. Không còn cách nào tuyệt diệu hơn để diễn tả hạnh phúc của sự sống đời sau đó. Nếu không có sự sống mai này, sự sống hôm nay quả đang đi vào ngõ bế tắt. Bởi sự chết sẽ thống trị tất cả. Rồi đây kẻ sang người hèn cũng như nhau. Bậc đạo đức tốt lành cũng không hơn gì kẻ gian ác mưu mô. Người dấn thân phục vụ cũng chẳng khác gì kẻ tàn phá giết hại sinh linh. Nếu không có sự sống lại thì “ta ăn đi, uống đi, vì mai ngày ta sẽ phải chết” (Is 22:13). Nếu không có sự sống lại thì “lời rao giảng của chúng tôi thật hư không… và việc anh em tin cũng hão huyền” (1 Cor 15:12-17). Nhưng nhờ tin vào sự sống đời sau, với xét xử công bình và thưởng phạt phân minh, tôi vững vàng bước đi trong yêu thương, ngay chính, với hy vọng trở nên con cái của sự sống lại, để sống hạnh phúc và sung mãn muôn đời.Amen. Mời các bạn cùng cầu nguyện với 3 phút Thánh vịnh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét