Trang

Thứ Năm, 2 tháng 9, 2010

Nhật Bản không có giải pháp vực dậy kinh tế ?

Thủ tướng Nhật vừa tiết lộ kế hoạch kích thích kinh tế mới, ngân hàng trung ương công bố các biện pháp để « hạ nhiệt » đồng yen trong bối cảnh Nhật Bản phải đối phó với giảm phát và đà phục hồi kinh tế của thế giới còn mong manh. Theo giới phân tích gói kích cầu của Tokyo không đem lại hiệu quả mong muốn. Ảnh minh họa Nghe bài viết trên đài RFI Nhật Bản vẫn chưa tìm ra giải pháp để có được một tỷ lệ tăng trưởng xứng đáng với tiềm năng kinh tế. Thủ tướng Naoto Kan ngày 30/8 vừa tiết lộ kế hoạch kích thích kinh tế mới trị giá 920 tỷ yen, tương đương với 11 tỷ đô la. Về phần mình, ngân hàng trung ương công bố một loạt các biện pháp tài chính nhằm « hạ nhiệt » đồng yen đang tăng giá ở mức kỷ lục so với đô la. Đồng yen ở mức cao kỷ lục – 1 đô la đổi lấy 83 yen- là trở lực cho ngành xuất khẩu, một trong những động cơ chính của cỗ xe kinh tế Nhật Bản. Các biện pháp nói trên được tung ra trong bối cảnh Nhật Bản phải đối phó với giảm phát và đà phục hồi kinh tế của thế giới còn khá mong manh. Hầu hết các chuyên gia cho rằng, gói kích cầu của Tokyo không đem lại những hiệu quả mong muốn. Trả lời báo giới thủ tướng Naoto Kan nhấn mạnh là chính phủ muốn trông cậy vào hai đòn bẩy để vực dậy kinh tế Nhật : vừa sử dụng ngân sách nhà nước vừa nới lỏng chính sách tiền tệ để kích thích tiêu thụ và đầu tư. Cụ thể hơn, Tokyo chủ trương phối hợp với ngân hàng trung ương để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tuyển dụng nhân công, nhằm đẩy lùi thất nghiệp vào lúc mà 11% dân số Nhật Bản trong độ tuổi từ 15 đến 21 đang không có việc làm. Một trọng tâm khác nội các Kan hướng đến là khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư trong nhiều lĩnh vực như ngành công nghệ sạch, giáo dục, tăng cường các dịch vụ cá nhân. Mục tiêu thứ ba cũng quan trọng không kém đó là thúc đẩy tư nhân mua sắm trong bối cảnh xuất khẩu đang bị chững lại. Chỉ số giá cả ở Nhật Bản không tăng mà lại giảm mạnh ở nhịp độ 1% một năm. Quan trọng hơn cả khi biết rằng toàn bộ nền kinh tế Nhật Bản trông cậy đến 60% vào khu vực tiêu thụ. Để tài trợ gói kích cầu 11 tỷ đô la nói trên, chính phủ Nhật dự trù huy động vốn từ quỹ dự trữ ngoại tệ (hơn 1800 ngàn tỷ đô la) đã tích lũy được từ lâu nay. Tuy vậy, thủ tướng Naoto Kan không loại trừ khả năng gia tăng ngân sách để hoàn thành mục tiêu. Vấn đề còn lại là kế hoạch thúc đẩy kinh tế mới này còn phải được Hội đồng chính phủ thông qua vào ngày 10/9 tới đây. Hạ nhiệt tỷ giá đồng yen Kế hoạch kích cầu nói trên được thủ tướng Kan tiết lộ vào giờ sau khi ngân hàng trung ương Nhật Bản công bố một loạt các biện pháp đển kềm giá đồng yen so với đô la hòng cứu vãn ngành xuất khẩu hiện đang bảo đảm đến 15% tổng sảm phẩm nội địa. Các biện pháp đó bào gồm : bơm thêm từ 20 đến 30 ngàn tỷ yen trong vòng sáu tháng sắp tới, duy trì lãi suất chỉ đạo ở mức rất thấp là 0,1% để khuyến khích tiêu thụ và đầu tư. Tuần trước, đơn vị tiền tệ Nhật Bản đạt mức cao kỷ lục so với đô la : một đô la tương đương với 83 yen. Đây là mức cao nhất từ 15 năm qua. Khi giá đồng yen tăng mạnh, hàng xuất khẩu của Nhật trở nên đắt đỏ hơn và khó cạnh tranh hơn đặc biệt là đối với một số mặt hàng của Trung Quốc trên trường quốc tế. Giới tài chính ban đầu tỏ ra hồ hởi trước các biện pháp của ngân hàng trung ương Nhật. Tuy nhiên, chỉ vài giờ sau đó, đồng yen vẫn tăng giá (1 đô la ăn hơn 84 yen trong phiên giao dịch ngày 31/8/10). Vào giờ đóng cửa hôm nay thì chỉ số chứng khoán Nikkei trên thị trường Tokyo đã tụt giá hơn 3%. Các chuyên gia không ngần ngại coi nỗ lực của ngân hàng trung ương Nhật Bản là « những biện pháp nửa vời ». Thứ nhất là nếu thực tâm muốn hạ nhiệt đồng yen so với đô la, ngân hàng trung ương Nhật nhẽ ra phải tung tiền ra mua đô la, khiến đô la tăng giá so với yen. Thứ hai trong bối cảnh kinh tế Nhật Bản hiện đang trong giai đoạn đình đốn, lãi suất đã xuống đến mức thấp hiếm có từ cuối 2008 đến nay, mà vẫn không đủ hấp dẫn để khuyến khích đầu tư và tiêu thụ. Do vậy, bơm thêm tiền vào mạng lưới tài chính để khuyến khích các ngân hàng mạnh dạn cấp tín dụng cho tư nhân không phải là một giải pháp thích hợp. Thứ ba nữa là do nước Nhật đang phải đối phó với hiện tượng giảm phát nghiêm trọng. Điều đó có nghĩa là người tiêu dùng và doanh nhân chờ đợi để mua sắm và đầu tư vào các trang thiết bị. Hiện tượng giảm phát làm tăng lãi suất thực xóa đi phần nào lợi thế mà ngân hàng trung ương tạo ra để khuyến khích tư nhân vay mượn tiền. Cuối cùng theo một số nhà phân tích thì bản thân hiện tượng đồng yen tăng giá cũng cần phải được xét lại : đành rằng, giá đồng yen /đô la tăng cao nhất kể từ năm 1995 tới nay. Tuy nhiên, vật giá ở nhiều nước phương tây như Hoa Kỳ hay châu Âu liên tục gia tăng, trong khi đó chỉ số giá cả ở Nhật lại giảm. Điều đó có nghĩa là tỷ giá hối đoái thực sự đã không hề tăng so với 15 năm trước đây mà ngược lại đồng yen còn giảm giá so với đô la. Theo một tính toán khác thì đồng yen hiện nay chỉ cao hơn so với trị giá thực sự của nó khoảng 5% và do vậy tác động tiêu cực của đơn vị tiền tệ Nhật Bản đối với khu vực xuất khẩu cũng chỉ rất giới hạn. Một số nhà quan sát còn cho rằng Nhật Bản đang viện cớ là đồng yen cao giá để che đậy những nhược điểm khác chẳng hạn như vấn đề thu nhập của nguời dân Nhật Bản ngày càng suy giảm. Dù sao thì gói kích cầu cũng được chính phủ Tokyo đưa ra trong bối cảnh, tổng sảm phẩm nội địa Nhật Bản trong quý hai vừa qua chỉ tăng 0,1% và nếu tính từ tháng tư 2009 cho đến tháng tư năm nay GDP của Nhật chỉ tăng có 0,4%. Nhật Bản vừa bị Trung Quốc tước đoạt mất vị trí siêu cường kinh tế thứ nhì thế giới, đà tăng trưởng của quốc gia này còn yếy kém trong bối cảnh kinh tế toàn cầu chưa thực sự bình phục sau khủng hoảng tài chính 2008/2009 đặc biệt là trước những tín hiệu không mấy khả quan bắn đi từ Hoa Kỳ càng gây lo ngại cho ngành xuất khẩu của nước Nhật. Nhiều doanh nghiệp bị suy yếu làm tổn hại đến mạng lưới công nghiệp quốc gia và đe dọa trực tiếp đến công việc làm của người dân. Một cuộc tham khảo ý kiến gần đây cho thấy có đến 40% doanh nghiệp Nhật Bản sẵn sàng di dời cơ sở sản xuất để tránh tác động của đồng yen tăng giá. Thêm vào đó hiện tượng đồng yen Nhật Bản tăng giá quá cao so với đô la và euro làm giảm giá nhu yếu phẩm và nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài vào Nhật. Điều này càng làm lộ rõ đe dọa giảm phát đối với Nhật Bản. Giới hạn của mô hình phát triển Nhật Bản Bên cạnh những giới hạn về phương diện kinh tế, Nhật Bản còn đang gặp một trở ngại không nhỏ đó là vấn đề ổn định trong ban lãnh đạo ở thượng tầng nhà nước. Trong 4 năm vừa qua, Nhật Bản đã 6 lần thay đổi thủ tướng. Vào ngày 14/9 tới đây đảng Dân chủ đang cầm quyết bầu lại ban lãnh đạo. Chưa có gì chắc chắn là nhân vật số một trong đảng này, ông Naoto Kan sẽ còn giữ được chiếc ghế chủ tịch, và qua đó là chức vụ thủ tướng. Đây là yếu tố khiến nhiều người tỏ ra hoài nghi về tính khả thi cũng như hiệu quả của một kế hoạch kích thích kinh tế mới. Đặc biết là trong hoàn cảnh Tokyo đang phải gánh một khoản nợ công chồng chất cao gấp đôi so với tổng sản phẩm nội địa. Thâm hụt ngân sách nhà nước trong năm nay lên tới 7% GDP và các gói kích cầu liên tiếp nối đuôi nhau ra đời càng khiến nợ quốc gia thêm lớn. Về phương diện xã hội thì dân số đang trên đà lão hóa. Tuy nhiên khác hẳn với nhiều quốc gia trong khối euro, Nhật Bản không hề gặp trở ngại trong việc huy động vốn để tài trợ các chương trình hỗ trợ kinh tế vô cùng quy mô. Đơn giản do Nhật Bản không phải vay mượn của các nhà tư bản nước ngoài. Tokyo vẫn may mắn huy động được tín dụng với lãi suất thấp nhất so với tất cả các nước công nghiệp phát triển khác trên thế giới. Bí quyết đó có được nhờ hai yếu tố : một là hơn 95% nợ của Nhật Bản nằm trong tay người dân Nhật khác hẳn với trường hợp của Hoa Kỳ hay Hy Lạp và Ý. Tokyo không cần huy động tư bản quốc tế để tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước do dân Nhật không mấy hào hứng gửi tiền tiết kiệm vào những khoản đầu tư có tính rủi ro cao. Yếu tố thứ nhì do từ nhiều năm nay cán cân vãng lai của Nhật Bản luôn thặng dư cho nên quốc gia này coi như kiểm soát một phần lớn của cải làm ra trên thế giới. Nhật Bản không trong tình trạng thiếu hụt tư bản. Theo dự phóng của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế, nhờ khoản thặng dư nói trên Nhật Bản đang nắm trong tay khoảng 3% tổng sản phẩm toàn cầu. Để so sánh thì thâm hụt cán cân vãng lai của Hoa Kỳ tương đương với 7% GDP thế giới. Tuy nhiên hiện tượng dân số xứ hoa anh đào đang trên đà lão hóa : số người trong tuổi lao động giảm đi so với người đã về hưu. Điều này bắt đầu đặt ra một vấn đề lớn về nguồn tài chính có thể cho chính phủ vay. Khi số người trong tuổi lao động giảm đi, tiết kiệm qua đó cũng giảm sụt, trong khi đó người già đến tuổi về hưu phải trông cậy vào khoản tiền đã để dành được từ trước đến nay để sinh sống. Nói cách khác, trong tương lai, Nhật Bản có khả năng bị lệ thuộc nhiều hơn vào tư bản nước ngoài. Kết luận Nhật Bản vừa bị Trung Quốc qua mặt để trở thành siêu cường kinh tế thứ nhì trên thế giới : trong quý hai vừa qua GDP của Nhật lên tới chưa đầy 1,29 ngàn tỷ đô la trong khi đó tổng sản phẩm nội địa của Trung Quốc đã vượt quá ngưỡng 1,33 ngàn tỷ. Nhưng nếu nhìn chung trong sáu tháng đầu năm thì nước Nhật vẫn là nền kinh tế nặng ký thứ hai của toàn cầu. Chính quyền Tokyo đang lúng túng với hồ sơ kinh tế chưa tìm được một chiếc đũa thần để tỷ lệ tăng trưởng èo uột được nhân lên gấp 5 hay 7 lần. Nội các của thủ tướng Naoto Kan cùng lúc phải giải quyết những hồ sơ nóng bỏng như là ngăn chặn đà gia tăng của đơn vị tiền tệ quốc gia để hỗ trợ xuất khẩu, cải thiện thị trường lao động hay đối phó với giảm phát … Dù vậy, tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản hiện chỉ bằng một nửa so với ở Hoa Kỳ hay nhiều nước trong khối sử dụng đồng tiền chung châu Âu. Một số nhà phân tích cho rằng, tình trạng kinh tế tại Nhật Bản chưa thực sự bước vào giai đoạn hiểm nghèo nhất cho nên cường quốc công nghiệp châu Á này chưa thực sự thoát khỏi những khó khăn dai dẳng, bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng địa ốc đã kéo dài từ hai chục năm qua. Dù sao đi chăng nữa trường hợp cá biệt của kinh tế Nhật Bản cho thấy là gia tăng ngân sách nhà nước, nới lỏng chính sách tiền tệ không phải là chìa khóa đem lại một tỷ lệ tăng trưởng mạnh mẽ cho một quốc gia. Nhật Bản kẹt trong một tình thế khá mâu thuẫn : là một quốc gia giàu có, với một tỷ lệ thất nghiệp tương đối thấp so với các nước công nghiệp phát triển thế nhưng đà tăng trưởng kinh tế lại tùy thuộc vào sức mua của các nước đối tác thương mại lớn như Mỹ hay Châu Âu, và gần đây là Trung Quốc. Các gói kích cầu dù quy mô đến đâu vẫn không đủ sức đưa kinh tế Nhật Bản thoát khỏi ngõ cụt. Phải chăng là Nhật Bản cần tìm cho mình mọt hướng đi mới. Chẳng hạn như tiên phong trong các dịch vụ hướng về những quốc gia có đời sống cao. Thanh Hà (RFI)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét